Quốc lễ Phật đản ở thời Lý 01/05/2021

Vua, hoàng hậu, các hoàng tử và công chúa cùng triều thần bách quan đều có mặt. Dân chúng các nơi tụ về rất đông để dự lễ. Sau khi chư Tăng tụng kinh Phật thuyết dục tướng công đức, thì nước thơm được dội lên tượng Phật. Trong khi đó, vua, quan và quần chúng chắp tay hướng về niệm Phật”.

Sau lễ tắm Phật là lễ phóng sinh. Vua bước lên kim đài dựng ở trước chùa. Chư Tăng tụng kinh Kim Quang Minh trong khi một lồng chim được dâng lên. Kinh vừa dứt, vua đưa tay vào lồng bắt một con chim thả cho bay lên. Dân chúng hô lên “Vạn tuế” rồi đều cùng thả chim rợp trời. Đời các vua sau đều làm theo vua Thánh Tông trong ngày Phật đản. Vua Thánh Tông băng hà vào tháng Giêng âm lịch năm 1072; vua Nhân Tông làm lễ nối ngôi ở trước linh cửu. Nhưng vua đợi cho đến sau ngày Phật đản (mồng tám tháng Tư) hành lễ Tắm Phật và phóng sinh xong mới ngự ra điện Thiên An thiết triều lần thứ nhất.

Lễ Tắm Phật và Phóng sinh được tổ chức vào buổi sáng, tối có lễ phóng đăng, thả hàng nghìn đèn trôi trên sông hồ…”(1).

Từ dữ liệu lịch sử trên cho thấy, lễ kỷ niệm Phật đản đã xuất hiện khá sớm kể từ khi Phật giáo du nhập vào nước ta, đến triều đại nhà Lý thì trở thành ngày quốc lễ Phật đản. Từ một nền Phật giáo quyền năng trước đó, đến khi Lý Thái Tổ lên ngôi, khai sáng ra vương triều nhà Lý, thì chuyển sang nền Phật giáo thế sự để đáp ứng nhu cầu xây dựng phát triển của đất nước trong một thời kỳ mới. Một thời kỳ mà cả dân tộc mở ra trang sử độc lập, tự chủ không chỉ trên biên giới cương thổ mà độc lập tự chủ trên tất cả lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo.

Cũng dễ hiểu, bởi vì Phật giáo Đại Việt luôn tự đặt sự tồn vong, phát triển của mình trong sự tồn vong và phát triển của đất nước. Hay nói cách khác, khi Phật giáo nước nhà được phát triển hưng thịnh thì sẽ góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, nhân dân được hạnh phúc an lạc. Cho nên, công việc đầu tiên mà Lý Thái Tổ đặt trọng tâm hàng đầu là dời đô về Thăng Long vào mùa Thu tháng 7 năm Canh Tuất (1010) với mục đích “Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh” mà Quốc sử Đại Việt sử ký toàn thư (2) từng ghi.

Hẳn nhiên, quyết định mang tính lịch sử trọng đại này không thể không có sự đề xuất của Thiền sư Vạn Hạnh khi mà việc lên ngôi của nhà vua có sự tham mưu của Thiền sư và giới quần chúng Phật tử cả nước ủng hộ. Nhưng điều đáng nói là từ sự kiện lịch sử này, diện mạo và đặc trưng của nền Phật giáo thế sự được minh chứng sống động, đáp ứng được nhu cầu phát triển đất nước, trong đó có Phật giáo Đại Việt thời đó. Nghĩa là khi quyết định dời đô, Lý Thái Tổ đã tiến hành xây dựng hệ thống chùa chiền, độ Tăng chúng trước khi thực hiện sửa sang tông miếu, xã tắc như các vương triều trước đó từng làm như Đại Việt sử ký toàn thư 2, tờ 3b6-7 từng ghi: “Lý Thái Tổ lên ngôi mới được 2 năm, tông miếu chưa dựng, đàn xã tắc chưa lập mà trước đó đã dựng tám chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở các lộ và độ hơn nghìn người ở kinh sư”.

Rõ ràng, việc xây dựng chùa chiền, độ Tăng chúng với số lượng đông như thế là nhằm thực hiện mục đích mà nền Phật giáo thế sự đặt ra, tức là Phật giáo phải nhập thế vào đời (thế sự), không thể tách rời cuộc đời mà tồn tại phát triển được một cách thuận lợi. Xây chùa là xây dựng môi trường tâm thức của con người Đại Việt, xây dựng một nền tảng văn hóa, giáo dục theo tinh thần dân tộc và nếp sống đạo đức tâm linh trong hiện thực cuộc đời này mà từ thời Bắc thuộc nhà chùa đã đóng vai trò nhà trường.

Cũng có thể nói rộng ra, vào thời điểm đó, nhà chùa không chỉ là cơ sở đào tạo giáo dục mà còn là những trung tâm văn hóa, biểu tượng cho sự phồn vinh của cả dân tộc. Chùa vừa là trường dạy học, xây dựng đội ngũ nhân tài phục vụ đất nước, vừa là nơi diễn ra lễ hội quần chúng, tạo nên sức mạnh đoàn kết dân tộc. Cho nên, việc xây dựng nhiều ngôi chùa mới và độ Tăng là quy luật tất yếu của một giai đoạn mà cả dân tộc đang chuyển mình qua một thời đại mới.

Vì vậy, trong 18 năm cầm quyền, Lý Thái Tổ đã ra sắc lệnh, chiếu chỉ tạo dựng chùa chiền nhiều lần. Ngay năm mới lên ngôi đã ra chiếu chỉ: “Phát tiền kho 2 vạn quan, thuê thợ làm tám sở chùa ở phủ Thiên Đức, đều dựng bia ghi công” và ra lệnh cho các hương ấp, “nơi nào có chùa quán đã đổ nát đều phải sửa sang lại”. Rồi khi xây dựng cung điện tại Thăng Long thì trong nội thành dựng chùa Ngự Hưng Thiên, còn ngoại thành thì làm chùa Thắng Nghiêm. Năm sau, 1011 lại dựng chùa Vạn Tuế, Tứ Đại Thiên Vương, Cẩm Y, Long Hưng và Thánh Thọ. Năm 1016, lại dựng 2 chùa Thiên Quang và Thiên Đức. Năm 1024, dựng chùa Chân Giáo như Đại Việt sử ký toàn thư 2 tờ 3a3-4, 3b3-4, 4a 6-7, 5a1-3, 7b3-4, 9b6-7 đã ghi.

Cũng trong thời gian này, nhà Lý đã hỗ trợ và tạo điều kiện cho người xuất gia: “Hữu Nhai Tăng thống Thẩm Văn Uyển tâu xin lập Giới đàn ở chùa Vạn Tuế cho Tăng đồ thụ giới, vua chuẩn y”. Hai năm sau 1016, Lý Thái Tổ “cấp độ điệp cho hơn 1.000 người ở kinh sư làm Tăng đạo”. Ba năm sau 1019, xuống chiếu cấp độ điệp cho nhân dân trong nước làm Tăng như Đại Việt sử ký toàn thư 2, tờ 7a2-3, 7b3 và 8b4-5 đã ghi.

Như vậy, việc xây chùa, độ Tăng là nhằm chuẩn bị cho cơ sở và nhân lực để phục vụ cho việc biểu dương sức mạnh và thành quả đạt được của dân tộc Đại Việt trong thời đại mới mà nhà chùa là nơi diễn ra các quốc lễ. Trong đó lễ kỷ niệm ngày Phật đản trở thành ngày quốc lễ Phật đản diễn ra song hành cùng với thời điểm các ngày lễ hội dân gian, dân tộc. Ba ngày lễ lớn của thời Lý là lễ hội Khám, hội Dâu và hội Gióng đều được tổ chức xung quanh Đại lễ Phật đản, vào mồng 8 tháng Tư, như ca dao thường nói:

“Mồng bảy hội Khám,
Mồng tám hội Dâu,
Mồng chín đâu đâu,
Kéo về hội Gióng”.

Tất cả những điều vừa nêu cho thấy, vào thời Lý, ngày Phật đản trở thành ngày quốc lễ cho cả nước. Theo các tài liệu Quốc sử chép, mỗi năm hội Phật đản đã được tổ chức thật hoành tráng nhằm biểu trưng sức mạnh cả dân tộc và không chỉ biểu dương thành quả của đất nước Đại Việt trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, tín ngưỡng tôn giáo… cho dân chúng xem và thưởng thức mà còn có sự chứng kiến của cả các vua quan, hoàng hậu, đại thần trong nước, cùng với sứ thần các nước lân bang tham dự.

Đại Việt sử ký toàn thư 2 ghi, cứ mỗi năm, trước khi Đại lễ Phật đản diễn ra thì các công trình quốc gia chuẩn bị đón mừng Phật đản phải được hoàn thành để cúng dường Tam bảo. Chẳng hạn dưới triều vua Lý Thái Tổ trị vì thì xây dựng chùa chiền, thỉnh Phật tôn trí như đã nói trên. Đến thời Lý Thái Tông, vào mùa Xuân, tháng 2, năm 1035, vua xuống chiếu “Phát 6 nghìn cân đồng để đúc chuông đặt ở chùa Trùng Quang. Chuông đúc xong, sai người kéo đến chùa. Nhưng chuông đó không đợi sức người, tự chuyển đi được, chỉ khoảnh khắc đã đến chùa”. Mùa Xuân năm sau, 1036 khánh thành pho tượng Phật Đại Nguyện và ân xá thiên hạ. Tháng 10-1049, vua ra chiếu chỉ dựng chùa Diên Hựu và nơi đây đã trở thành địa điểm tổ chức quốc lễ Phật đản hàng năm.

Tuy nhiên, quốc lễ Phật đản được tổ chức quy mô và hoành tráng nhất trong lịch sử nước ta phải đợi đến thời vua Lý Nhân Tông trị vì , đã được Đại Việt sử ký toàn thư và Đại Việt quốc đương gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh (Bia tháp Sùng Thiện Diên Linh của vua thứ tư nhà Lý đương làm chủ nước Đại Việt) ghi lại. Nhưng trước đó, dấu ấn của quốc lễ Phật đản diễn ra hàng năm dưới thời vua Lý Thánh Tông cũng được ghi vào tâm khảm người dân, có giá trị tác động vào đời sống văn hóa và giáo dục, thúc đẩy sự phát triển đất nước và hoằng dương Phật pháp khiến cho các nước lân bang trọng nể, đánh giá cao.

Tháng Tư năm 1055 tạo dựng chùa Sùng Khánh, phát 1 vạn 2 nghìn cân đồng để đúc chuông, vua đích thân làm bài minh ca ngợi. Vào năm 1057 dựng chùa Thiên Phúc và Thiên Thọ, đúc 2 pho tượng Phạn Vương và Đế Thích bằng vàng để đón mừng Phật đản. Vào năm 1071, mùa Xuân, tháng Giêng vua viết bia chữ dài 1 trượng 6 thước đặt ở chùa Tiên Du đạt kỷ lục lớn nhất từ trước giờ đến thời điểm đó. Và vào ngày 8 tháng Tư, nhân dịp quốc lễ Phật đản, vua đích thân tắm Phật dưới sự chứng minh của chư Tăng và hoàng hậu, đại thần, sứ thần, dân chúng tham dự.

Trong ngày quốc lễ Phật đản năm 1071 này, Đại Việt sử ký toàn thư chỉ ghi vắn tắt ngoài sự kiện vua tham dự lễ tắm Phật, còn có ghi thêm đôi dòng “Cho các sư đi nhiễu xung quanh tụng kinh cầu nguyện cho vua sống lâu”. Tuy nhiên, Đại Việt quốc đương gia đệ tứ Sùng Thiện Diên Linh tháp bia viết một cách chi tiết hơn: “Để mồng một hàng tháng, để mùa Xuân hàng năm, nhà vua ngồi xe ngọc, đến mở tiệc chay, bày hương án làm lễ cầu an , đặt bồn chậu để làm phép tắm Phật, tạo dáng tin thành cho dân chúng, hở vai tiến thoái nhịp nhàng, gầy đội thiên vương khắp bốn phương, hay nâng khí cụ bồi hồi nhảy múa… hàng năm làm lệ thường”(3).

Rõ ràng, quốc lễ Phật đản được tổ chức hoành tráng qua các nghi thức lễ tắm Phật, phóng sinh, phóng đăng, cầu an, chẩn tế, bạt độ, cầu quốc thái dân an đã làm cho tư tưởng Phật giáo thế sự được hiện thực hóa ở đời. Đại lễ Phật đản đã minh chứng cho thấy, vào thời nhà Lý, Phật giáo luôn ở vị thế và có vai trò quan trọng trong việc xây dựng đất nước, cũng như giữ nước dài lâu. Thực tế, bất cứ một nền độc lập, tự chủ của một quốc gia, nếu muốn phát triển phồn thịnh thì phải được thiết lập từ cơ sở “dân có giàu, nước mới mạnh”, mà ngày nay trở thành tiêu chí cho mọi quốc gia hướng đến, nhưng đó cũng là cách nói của cha ông ta ngày xưa “dân có an, quốc gia mới thái bình” (Quốc thái dân an).
Do đó, thông qua ngày quốc lễ Phật đản, đã xác lập mục tiêu hướng đến của cả dân tộc trong việc xây dựng một nước Đại Việt phồn vinh.

Trong đó, các giá trị tâm linh, văn hóa, giáo dục cần được duy trì và tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đó chính là sự kết nối truyền thông tình yêu thương trong các mối quan hệ giữa con người với con người, con người với môi trường sống, giữa gia đình và xã hội, giữa người dân và vua quan, đại thần lãnh đạo đất nước nhằm tạo ra sức mạnh đoàn kết toàn dân thực thi một đời sống hạnh phúc thật sự. Điều này được nhân dân Đại Việt thời đó đúc kết và hát ca trong ngày quốc lễ Phật đản và lễ hội dân tộc:

“Vào chùa thắp một nén nhang,
Khói lên nghi ngút bốn phương nhà chùa”

Như vậy, ngày quốc lễ Phật đản trở thành ngày lễ hội cả dân tộc, tất cả mọi người dân đều được sống trong cảnh giới Phật quốc ngay giữa cõi đời, khi mà bốn phương tám hướng đều trở thành nhà chùa. Điều này càng có ý nghĩa hơn khi mỗi người dân đồng tâm thực thi sứ mệnh mà dân tộc và đạo pháp giao phó. Kết quả, việc tổ chức quốc lễ Phật đản không chỉ là ngày làm cho các giá trị tâm linh “Phật tính” hiển lộ mà còn là ngày tổng kết các thành tựu của đất nước ta trên các lĩnh vực từ văn hóa cho đến kinh tế, chính trị,… để dân chúng và các nước lân bang ghi nhận. Chúng ta có thể thấu hiểu điều đó qua các dữ liệu sử sách, nhất là Đại Việt quốc đương gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh ghi lại về việc thiết kế lễ đài Phật đản thật hoành tráng và rất quy mô:

“Dựng đài cao Quảng Chiếu, nhắm sân trước Đoan Môn. Trong nêu một cột; ngoài đặt bảy tầng. Uốn hình cung nâng lấy sen vàng; may lồng nhiễu che cho ngọn lạp. Dấu cơ vi ở dưới đất, như bánh xe xoay chuyển; rực ánh sáng giữa trời, như bóng ác chói chang. Lại có bảo Thánh rực rỡ trang nghiêm; điện vàng viện báu. Do ý Thánh dựng nên; đặt tượng vàng hai dãy. Dáng tỏ linh văn, hình phô kỳ lệ. Lại có hai tòa lầu hoa, trong treo chuông vàng, khắc chú tiểu mình mặc áo nâu sồng; vặn máy ngầm giơ vồ chuông lên đánh. Nghe vỗ bao gươm mà đứng nghiêm quay mặt; nhìn thấy thánh minh mà khom cật cúi đầu. Những việc này đều nảy sinh từ ý nhà vua, muốn sao được vậy”.

Lại có đài cao thất bảo, xếp thành một dãy, chính giữa có một ngọn núi vàng. Đặt tượng đẹp Như Lai Đa Bảo; bày chân hình xe phép mấy tầng, mái hiên lấp lánh ánh mặt trời buổi sáng; màu ngói huy hoàng vẻ mây biếc ban chiều. Thứ đến, hai tòa bạch ngân: bên tả đặt chân dung A Di Đà, bên hữu để Xá lợi của sắc thân mầu nhiệm. Chiều cao mở ra thế khỏe; vẻ đẹp phô ra mái cong. Long lanh ngỡ tuyết trắng đang tan; rực rỡ ánh trăng thu vằng vặc. Thứ nữa lại có hai tòa Điểu văn: Bên tả đặt từ nhan của Chính giác; bên hữu đặt diệu tướng của Bồ đề. Đã hoàn thành gác lớn; lại xây dựng lầu cao. Nóc che ngói quý, vách chạm hình rồng. Lại thứ nữa có hai tòa ngà voi: bên tả chạm hình dung Phật Cam Lồ; bên hữu đặt diệu tướng Phật Bảo Thắng. Gọt mài chất quý; cao dựng cột hiên. Các cạnh nạp ngọc quý; các khe khảm sừng tê. Lại soạn kỹ những lời ghi đẹp đẽ, đều khắc vào bên cạnh tòa sen. Mở tấm lòng trong trắng; soi sáng mãi đời sau.

Lại tả chín phương bằng năm sắc; khắc bốn cột bằng song huyền. hai bên nghìn đèn nhấp nháy; bốn mặt rực rỡ vàng son. Có thể gọi là: hơn xa chế độ xưa nay; vượt hẳn sinh thành tạo hóa. Dồn hòa vui của thiên hạ, đêm trở thành ngày; thỏa tâm mục của thế gian, già nay trẻ lại. Đó là công lao khéo xây dựng thắng duyên của bệ hạ”(4).

Sức mạnh Đại Việt thời đó, được phô diễn và phát huy cao độ qua việc tổ chức quốc lễ Phật đản hết sức kỳ công, trầm hùng. Mọi người dân từ những cương vị khác nhau và tùy theo khả năng từng người mà đóng góp cho đất nước từ tâm lực cho đến tài lực. Nó cũng minh chứng cho chúng ta thấy, thời đó, trình độ văn hóa, kỹ thuật công nghệ cơ học, kiến trúc xây dựng và điêu khắc, chạm trổ cực kỳ tinh xảo, mỹ thuật pha màu trong vật liệu xây dựng thật kỳ độc đáo, nhất là sự phối màu thật huyền ảo, lung linh sống động… tất cả đã tạo ra một diện mạo của một nước Đại Việt thật hùng cường và tráng lệ khiến cho nhân ta thật tự hào và các nước lân bang thán phục mà bài văn bia Sùng Thiện Diên Linh ghi nhận: “Nhân dân hòa hợp; trăm họ yên vui. … Họp các nước chư hầu mà yến thưởng…, làm chân chủ của đất trời…”(5).

Quả thật, việc xây chùa, độ Tăng vào thời Lý là công việc không chỉ có ý nghĩa trong lĩnh vực tôn giáo nữa mà thông qua con đường này làm cho mọi tiềm lực của quốc gia được bộc lộ và hiển bày cụ thể qua các thành tựu mà chúng ta đạt được trên các lĩnh vực như Đại Việt sử ký toàn thư và Đại Việt quốc đương gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh ghi nhận. Do đó, ta chẳng ngạc nhiên gì khi Chu Văn Thường khẳng định điều này trong bài văn bia “An Hoạch sơn Báo Ân tự bi ký” khoảng năm 1100: “Người dựng chùa là để mãi mãi giữ lấy nước nhà” (mộ tu tượng pháp, vĩnh bảo bang gia). Hệ quả tất yếu là Phật đản được trở thành ngày quốc lễ hàng năm vào thời Lý.

 
(1) Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 2, tr.476, NXB Văn Học, Hà Nội, tái bản, tr.476
(2) Xem Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư .
(3) Nguyễn Công Bật, Đại Việt quốc đương gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh, Thơ văn Lý Trần, tập I, NXB KHXH, Hà Nội, 1977, tr.405.
(4) Nguyễn Công Bật, Đại Việt quốc đương gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh, Thơ văn Lý Trần, tập I, NXB KHXH, Hà Nội, 1977, tr.404-405.
(5) Nguyễn Công Bật, Đại Việt quốc đương gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh, Thơ văn Lý Trần, tập I, NXB KHXH, Hà Nội, 1977, tr.405-406.

 

Theo phattuvietnam

Tag :

X

Live chat fanpage

Bạn cần tư vấn ?