Tưởng nhớ công lao của vua Trần Nhân Tông và công chúa Huyền Trân 27/06/2018

Cách đây đúng 700 năm, vào mùa hạ năm 1306 đã xẩy ra một sự kiện gây sự tranh cãi trong cung đình và sự xôn xao trong dư luận xã hội. Đó là quyết định của thượng hoàng Trần Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho vua Chămpa Chế Mân. Quốc sử ghi: “Trước đây Thượng hoàng đi chơi các địa phương sang nước Chiêm Thành, đã trót hứa gả con gái cho. Các văn sĩ trong triều ngoài nội nhiều người mượn điển vua nhà Hán đem Chiêu Quân gả cho Hung Nô làm lời thơ bằng quốc ngữ để chê cười” (Đại Việt sử ký toàn thư). Sử thần Ngô Sĩ Liên thế kỷ XV cũng bình luận theo hướng chê  trách: “Vua giữ ngôi trời mà Thượng hoàng đã xuất gia rồi, vua đổi mệnh [từ chối lời hứa của thượng hoàng] thì có khó gì mà lại đem [công chúa] gả cho người xa không phải giống nòi cho đúng lời hẹn trước” (Lời bàn trong Đại Việt sử ký toàn thư). Câu chuyện này cũng đã đi vào ca dao dân gian và cho đến gần đây vẫn có không ít người chưa hiểu đúng tư tưởng và chủ trương sâu xa của Trần Nhân Tông, cụ thể như phố Huyền Trân công chúa ở Hà Nội đã bị xóa bỏ và thay bằng tên phố Bùi Thị Xuân.

Trần Nhân Tông là vị vua thứ ba của triều Trần, tên là Trần Khâm, được vua Trần Thánh Tông nhường ngôi năm 1278. Nhà vua ở ngôi cho đến năm 1293, nhường ngôi cho hoàng thái tử Trần Thuyến tức vua Trần Anh Tông và theo chế độ nhà Trần, làm thái thượng hoàng. Trong thời gian 14 năm giữ ngôi vua (1278-1293), vua Trần Nhân Tông cùng thượng hoàng Trần Thánh Tông là hai vị vua anh hùng, có công lớn trong sứ mạng tổ chức và lãnh đạo hai cuộc kháng chiến vô cùng ác liệt chống Nguyên năm 1285 và năm 1287-1288. Quốc công Tiết chế Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn là nhà quân sự kiệt xuất, là vị anh hùng dân tộc giữ vai trò thống soái, trực tiếp chỉ huy cuộc chiến tranh, nhưng chúng ta không được quên vai trò của triều đình cùng người đứng đầu là vua và thượng hoàng, và cũng chính vua Trần Nhân Tông, tất nhiên phải được sự chuẩn y của thượng hoàng Trần Thánh Tông, năm 1283 đã “tiến phong Hưng Đạo vương Quốc Tuấn làm Quốc công tiết chế thống lĩnh thiên hạ chư quân sự” (Đại Việt sử ký toàn thư). Vua và thượng hoàng cùng triều đình không những tạo nên sức mạnh “vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, nước nhà chung sức” như sau này Trần Quốc Tuấn đã đúc kết thành nguyên nhân thắng lợi chủ yếu, mà trong một số trường hợp cần thiết còn trực tiếp cầm quân đánh giặc như trận Trường Yên, Tây Kết trong kháng chiến năm 1285 và tự đem đại quân tiếp ứng cho trận đại thắng Bạch Đằng năm 1288.

Trong kháng chiến chống Mông-Nguyên, một kế sách rất nguy hiểm của nhà Nguyên là năm 1282 mở cuộc chinh phạt Chămpa để vừa xâm chiếm Chămpa, vừa tạo lập một bàn đạp mở cuộc tấn công từ phía nam lên phối hợp với ba hướng tấn công chủ yếu từ phía bắc xuống, tạo thành bốn gọng kìm bao vây, đánh bại nước Đại Việt. Đồng thời nhà Nguyên còn bắt nhà Trần phải cho mượn đường và cung cấp lương thực cho quân Nguyên nhằm gây mầm chia rẻ và xung đột giữ hai nước. Nhà Trần đã phá tan mưu mô đó bằng cách không những không chấp nhận các yêu sách của nhà Nguyên mà còn phái quân đội vào nam giúp Chămpa, theo Nguyên sử là 2 vạn quân và 500 chiến thuyền, cùng chiến đấu chống kẻ thù chung. Quân Nguyên do tướng Toa Đô phải vượt biển vào cảng Chiêm Thành (Qui Nhơn) rồi tiến đánh kinh đô Vijaya (thành Chà Bàn, Bình Định) của Chămpa. Dưới sự lãnh đạo của vua Indravarman V và Hoàng tử Sri Harijit, quân dân Chămpa rút lên miền núi, lập căn cứ, tiến hành cuộc kháng chiến thắng lợi, buộc quân Nguyên phải rút khỏi kinh đô, kéo ra chiếm giữ miền Ô, Lý (Thừa Thiên-Huế và nam Quảng Trị) để năm 1285 đánh ra phía nam Đại Việt nhưng lực lượng bị giảm sút nhiều. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Nguyên của Chămpa năm 1282-1283 có sự tham gia trợ lực của Đại Việt và chiến thắng đó lại làm phá sản một kế hoạch quân sự của nhà Nguyên, tạo thuận lợi cho thắng lợi của Đại Việt trong kháng chiến chống Nguyên năm 1285. Trong lịch sử quan hệ Đại Việt-Chămpa, đây là biểu tượng đẹp đẽ của tinh thần đồng minh chiến đấu của hai nước và người anh hùng của cuộc kháng chiến chống Nguyên của Chămpa là Hoàng tử Sri Harijit khi lên làm vua tức vua Jaya Sinhavarman IV (1285?-1307) mà sử ta chép là Chế Mân, năm 1306 trở thành vị Phò mã của vua Trần.

Cuộc hôn nhân này được vua Trần Nhân Tông chuẩn bị rất chu đáo. Nhà vua rất yêu nước thương dân và tôn sùng đạo Phật. Sau khi đất nước đã yên bình, ngôi vua đã giao cho vua Trần Anh Tông, năm 1299 nhà vua xuất gia lên núi Yên Tử (Quảng Ninh), sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm. Đây là một Thiền phái mang tính dân tộc, tính nhập thế và tính nhân bản cao, đã qui tụ được mọi tông phái Phật giáo lại gần như thành một giáo hội thống nhất của Phật giáo Đại Việt. Nhà vua xuất gia với pháp danh là Điều Ngự đầu đà hay Hương Vân đại đầu đà, thường gọi là Điều Ngự giác hoàng, nhưng tâm trí vẫn không ngừng lo toan việc nước. Nhà vua lên núi Yên Tử cũng vì “Đức ngài biết xem thiên hạ là công, trong nước vô sự nhưng phía bắc vẫn có nước láng giềng mạnh, chưa được an tâm. Cái ý ấy không tiện nói ra, sợ người ta dao động, nên nhằm ngọn núi Yên Tử là núi cao nhất, phía đông nhìn về Yên Quảng, phía bắc liếc sang hai xứ Lạng, dựng ngôi chùa, thời thường dạo chơi để xem động tĩnh, cốt để ngừa cái mối lo nước ngoài xâm phạm” (Ngô Thì Nhậm, Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh). Cũng vì lo cho vận nước, năm 1301 nhân sứ giả của vua Chămpa sang cống lễ vật, nhà vua theo sứ bộ thăm đất nước láng giềng phương nam này trong 8 tháng (từ tháng 3 đến tháng 8 năm Tân Sửu-1301) để củng cố mối quan hệ hòa hiếu giữa hai nước đã được nâng cao trong thời gian đồng minh chống Nguyên do chính nhà vua kiến lập. Đây là một cuộc viếng thăm ngoại giao đặc biệt, người cầm đầu bề ngoài là một đại sư nhưng thực sự vẫn là một thái thượng hoàng đầy uy tín. Chính trong cuộc viếng thăm này, nhà vua đã hứa gả công chúa cho vua Chế Mân nhằm thắt chặt hơn nữa quan hệ Đại Việt-Chămpa, một quan hệ láng giềng giữ vai trò trọng yếu trong bố phòng lực lượng tự vệ và trong cuộc đấu tranh chống họa xâm lược phương bắc mà nhà Tống và nhà Nguyên đã ra sức lợi dụng.

Tuy nhiên cuộc hôn nhân diễn ra không đơn giản vì ngay thời bấy giờ   không mấy người hiểu hết suy tư, tính toán của vua Trần Nhân Tông. Năm 1305, vua Chămpa sai sứ bộ hơn trăm người do Chế Đồ Đài cầm đầu, đem nhiều báu vật gồm vàng bạc, hương liệu quý và của lạ làm lễ vật cầu hôn. Trong quan niệm tự coi là thiên tử, phần nhiều triều thần đều cho là không nên. Duy chỉ có Văn Túc vương Đạo Tái trong hàng quý tộc và Nhập nội hành khiển Trần Khắc Chung trong hàng sĩ phu là hiểu ý thượng hoàng và thuyết phục mọi người. Năm 1306 vua Trần gả công chúa Huyền Trân cho vua Chămpa Chế Mân và vua Chế Mân đem hai châu Ô, Lý làm lễ vật dẫn cưới. Quyết sách đối ngoại của thượng hoàng Trần Nhân Tông được thực hiện, nâng cao và thắt chặt quan hệ bang giao hòa hiếu giữa hai nước Đại Việt-Chămpa.

Năm 1307, nhà Trần đổi hai châu Ô, Lý thành châu Thuận và châu Hóa, cuối Trần lập thành lộ (trấn?) Thuận Hóa. Lúc đầu, một bộ phận cư dân Chămpa trên đất Ô, Lý như các thôn La Thủy, Tác Hồng, Đà Bồng không tôn thuận, nhưng nhà Trần cử một trọng thần là Tham tri chính sự Đoàn Nhữ Hài, người đã từng đi sứ Chămpa, về tận nơi phủ dụ, ban hành chính sách bổ dụng người Chăm làm quan, cấp ruộng đất, tha tô thuế trong 3 năm. Đất Thuận Hóa ra đời trong sự hội nhập vào lãnh thổ Đại Việt không phải bằng sự lấn chiếm hay xâm lược mà là sản phẩm của quan hệ đồng minh, của sự hòa hiếu và của một cuộc hôn nhân mang ý nghĩa lịch sử. Người thiết kế cuộc hôn nhân ngoại giao này là thượng  hoàng Trần Nhân Tông và người vì nước mà thực thi là công chúa Huyền Trân. Vì vậy kỷ niệm 700 năm Thuận Hóa, trước hết chúng ta nên tưởng nhớ tới công lao của vị Vua-Anh hùng kiêm Vua-Phật Trần Nhân Tông và công chúa Huyền Trân. Tôi được biết thành phố Huế đã có tên phố Trần Nhân Tông và Huyền Trân, nhưng chưa thật tương xứng, do đó nhân dịp kỷ niệm 700 năm Thuận Hóa, tôi xin trân trọng đề nghị lãnh đạo thành phố Huế giành một vài đường phố hay trường học, công trình công cộng đặt tên cho ba nhân vật lịch sử: Trần Nhân Tông, Huyền Trân và Chế Mân (hay Jaya Sinhavarman IV). Thành phố Huế có dự định xây dựng đền thờ Công chúa Huyền Trân, tôi xin gợi ý nên thờ cả công chúa Huyền Trân và vua Chế Mân.

Tất cả chúng ta đều hiểu kỷ niệm Thuận Hóa 700 năm hoàn toàn không có nghĩa lịch sử đất Thuận Hóa chỉ mới bắt đầu từ đây, mà phải ngược lên tận thời tiền sử khi con người xuất hiện trên vùng đất này và kéo dài đến tận ngày nay. Trong dòng chạy lịch sử đó của vùng đất Thuận Hóa, sau thời tiền sử mà khảo cổ học đã phát hiện được nhiều di tích kể cả khả năng di tích hậu kỳ đá cũ, là thời văn hóa Sa Huỳnh trong quan hệ giao lưu mật thiết với văn hóa Đông Sơn, rồi thời Chămpa trong quan hệ giao lưu với Đại Việt và từ 700 năm trở lại đây là thời dung hợp văn hóa Việt-Chăm và thời phát triển với tiến độ ngày càng mạnh mẽ của vùng đất này với cương vị một bộ phận của lãnh thổ Đại Việt, của lịch sử-văn hóa Đại Việt-Việt Nam. Thuận Hóa xưa, Thừa Thiên-Huế và Quảng trị ngày nay, đã giữ vai trò quan trọng trong phong trào chống Minh đầu thế kỷ XV, trong cuộc đấu tranh chống xâm lược và đô hộ của chủ nghĩa thực dân Pháp, trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước giành lại độc lập-thống nhất tổ quốc. Đặc biệt trên vùng đất này đã từng tồn tại thủ phủ của chính quyền chúa Nguyễn từ Ái Tử đến Phước Yên, Kim Long rồi Phú Xuân, sau đó là kinh thành Phú Xuân của vương triều Quang Trung 1788-1801 và kinh thành Phú Xuân-Huế của vương triều Nguyễn 1802-1945. Phú Xuân-Huế là trung tâm chính trị-văn hóa của cả đất nước, một thời hội tụ và kết tinh các giá trị của văn hóa dân tộc, đã được công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới.

Nhân dịp kỷ niệm 700 năm Thuận Hóa, thay mặt Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, tôi xin nhiệt liệt chúc mừng những thành tựu xây dựng và phát triển quê hương của nhân dân Thừa Thiên-Huế ngày nay và bày tỏ sự tôn vinh đối với những cống hiến của các lớp cư dân tổ tiên trước đây, những anh hùng và danh nhân văn hóa của Chămpa, Đại Việt, Việt Nam trong lịch sử.

Phan Huy Lê

nguồn: https://xuanay.vn/tuong-nho-cong-lao-cua-vua-tran-nhan-tong-va-cong-chua-huyen-tran/

Tag :

X

Live chat fanpage

Bạn cần tư vấn ?