Cũng như rồng, phượng hoàng hay phượng là một hình tượng đặc biệt trong văn hóa Việt, cả hai cùng thuộc bộ Tứ linh, và hơn thế là một cặp đối xứng biểu trưng cho những gì tốt đẹp, cao quý nhất. Nhưng không như rồng, vốn có nguồn gốc từ phương Bắc, phượng hoàng có thể là sản phẩm của cư dân phương Nam.
Phượng hoàng xuất hiện từ rât sớm trong văn hóa Trung Hoa. Hơn 7 ngàn năm trước, hình tượng phượng hoàng đã xuất hiện trên các đồ gốm. Đó là một loài chim lớn, hình dáng cân đối mạnh mẽ, cổ dài, đuôi dài mà người ta cho rằng có thể là một loài chim có thật vốn được cư dân thờ như một tô tem giáo bản địa. Nhưng một số nhà nghiên cứu lại cho rằng phượng hoàng có nguồn gốc từ phương Nam, mà cụ thể là từ đất Việt Nam. Tư Mã Thiên trong bộ Sử ký nổi tiếng đã ghi rằng: “Năm Tân Mão thứ sáu (1.110 TCN) đời Thành Vương nhà Chu, họ Việt Thường thị ở bộ Giao Chỉ sai sứ dâng chim trĩ trắng. Sứ giả không thuộc đường về, Chu Công cho 5 cỗ xe làm theo lối chỉ nam theo đường ven biển về nước, đi tròn năm mới về đến nơi”. Chim trĩ trắng sau đó mới chuyển hóa thành hình tượng phượng hoàng, loài chim tượng trưng cho sự đoan trang, cao quý và sắc đẹp của người phụ nữ.
Thực ra nguyên xưa phượng và hoàng là hai con trống- mái của một loài chim. Trong Ngũ hành hay thuật phong thủy người ta hay lấy phượng hoàng làm một đôi đang hướng mặt vào nhau, tượng cho phương nam. Nhưng về sau, tên gọi phượng hoàng không còn phân biệt mà dùng chỉ chung cho loài linh điểu cao quý nhất trong loài chim.
Trong văn hóa Việt, hình tượng phượng hoàng xuất hiện từ rất sớm. Có người cho rằng, hình tượng chim Lạc trên trống đồng Đông Sơn chính là sự khắc họa có tính điển hình đầu tiên. Đó là loài chim thần, đang bay lượn trong điệu múa của vũ trụ để vạn vật sinh sôi và hòa hợp. Nếu đúng như vậy, từ buổi nguyên thủy phượng hoàng đã là linh điểu trong tô tem của người Việt cổ.
Sau khi tiếp nhận ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa, phượng hoàng có những thay đổi nhưng vẫn là linh vật quan trọng hàng đầu và là biểu tượng của phương Nam. Phượng hoàng là Thái âm, hợp với rồng (Thái dương) để tạo nên một cặp đối xứng âm – dương trong Tứ tượng.
Phượng hoàng là linh điểu nên cũng như rồng, nó là sự tập hợp những nét ưu việt nhất của các loài vật như đầu gà, hàm én, cổ rắn, lưng rùa, đuôi cá…, thân mang năm màu của Ngũ hành là đen, trắng, đỏ, xanh và vàng, đồng thời tượng trưng cho sáu yếu tố bao hàm cả vũ trụ: đầu là bầu trời, mắt là Mặt trời, lưng là Mặt trăng, cánh là gió, chân là đất và đuôi là các hành tinh… Chính vì vậy phượng hoàng múa là biểu trưng của vũ trụ đang vận hành.
Trong kiến trúc và trang trí, hình tượng phượng hoàng có sớm không kém gì rồng, thậm chí còn phổ biến và đa dạng hơn nhiều, sự chau chuốt và chất nghệ thuật cũng hơn hẳn. Phượng hoàng trên nóc cung điện thời Lý Trần được tạo hình với số lượng rất lớn và đã đạt đến trình độ nghệ thuật tuyệt vời. Ngày nay, được ngắm những đầu chim phượng bằng gốm khổng lồ vốn được phát hiện tại khu Hoàng thành Thăng Long- Hà Nội, ai cũng trầm trồ kinh ngạc về chiều kích và chất nghệ thuật của chúng. Không biết có phải vì vai trò và ảnh hưởng quá lớn của phượng hoàng mà thành Thăng Long hồi ấy cũng gọi là Phượng Thành, về sau là Long Phượng Thành. Từ thời Lê, phượng hoàng bắt đầu ảnh hưởng sâu sắc hơn vào đời sống cung đình. Hình tượng phượng hoàng thường được gắn với hoàng hậu, phi tần, công chúa… trong khi rồng là biểu tượng của nhà vua. Ngay cả áo mão của nữ giới trong cung cũng gắn chặt với hình ảnh của phượng nhưng khác nhau về số lượng và cấp độ trang trí. Đến thời Nguyễn thì các quy định trở nên vô cùng chặt chẽ. Mão đại triều của hoàng hậu có gắn 9 con chim phụng bằng vàng, xiêm y cũng vậy nhưng là thêu bằng chỉ vàng, kim tuyến. Từ bậc quý phi xuống đến cung tần, tiệp dư…thì căn cứ vào thứ bậc để giảm về số lượng và mức độ trang trí.
Trong kiến trúc, hình tượng phượng hoàng xuất hiện khắp nơi. Thành Gia Định từ thời Minh Mạng đến thời Tự Đức (1836- 1859) được gọi là Phụng Thành (Đàng trong gọi phượng là phụng). Tòa thành này đã bị thực dân Pháp san phẳng khi đánh chiếm Nam bộ. Tại kinh đô Huế, toàn bộ phần kiến trúc gỗ bên trên cổng chính Ngọ Môn của Hoàng thành có tên là lầu Ngũ Phụng. Nhiều người thắc mắc vì sao ca dao Huế có câu: “Ngọ Môn 5 cửa 9 lầu” mà lại gọi là lầu Ngũ Phụng? Thực ra, chữ “Ngũ Phụng” ở đây chỉ có nghĩa biểu trưng, vì phượng là linh điểu tượng cho phương Nam. Ngọ Môn là cổng chính quay mặt về hướng Nam nên mới mang tên ấy. Lầu Ngũ Phụng còn mang ý nghĩa là nơi nhà vua trọng thị mời gọi và đón tiếp hiền tài từ bốn phương về tụ hội, vì “hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Trong thời kỳ này, các bậc học giả thi đỗ đại khoa đều được ví như phượng hoàng. Bởi vậy mới có chuyện, khoa thi năm Mậu tuất 1898, đất Quảng Nam có đến 5 vị cùng thi đỗ đại khoa (2 Phó bảng, 3 Tiến sỹ) thì được vinh danh là xứ sở có “ngũ phụng tề phi” (5 chim phượng cùng bay lên).
Tuy vậy, hình ảnh phượng hoàng vẫn gắn nhiều hơn với hình tượng nữ giới trong cung. Cung Diên Thọ vốn dành cho Thái hậu nên nóc mái đều được trang trí hình chim phượng. Chim phượng cũng được tạo hình thành từng cặp trên bình phong của cung Trường Sanh (dành cho Thái hoàng thái hậu), bình phong lăng Khiêm Thọ (lăng hoàng hậu Lệ Thiên, vợ vua Tự Đức)… Phượng hoàng cũng xuất hiện nhiều có khi đơn lẻ, có khi chung trong bộ Tứ linh, trên các phù điêu trang trí tại các ô hộc, liên ba cổng, tường, mái cung điện bằng các loại chất liệu phong phú: gỗ, đá, mảnh sành sứ, đắp vôi vữa… Có một hình ảnh rất đẹp thường gặp trong kiểu trang trí này là phượng hoàng đậu trên cây ngô đồng. Ngô đồng là giống cây quý, cũng là loài cây duy nhất mà phượng hoàng chọn để đậu. Phượng hoàng xuất hiện là sự báo điềm lành, là sự khởi đầu của hòa bình, thịnh vượng, quốc thái dân an. Có lẽ vì mong mỏi điều ấy mà vua Minh Mạng đã cho trồng 4 cây ngô đồng ngay sau điện Thái Hòa và trước điện Cần Chánh. Đến nay, những cây cổ thụ này vẫn đều đặn nở hoa tím biếc cả một khoảng trời mỗi mùa hè chớm về chốn hoàng cung.
Nguồn: http://culturemagazin.com/vi/phuong-hoang-trong-van-hoa-viet/