Tín ngưỡng Đức Thánh Trần (phần 1) 18/09/2017

“Đức Thánh Trần” là một hiện tượng đặc biệt của đời sống văn hóa dân gian người Việt. Nó như một minh chứng tiêu biểu về mối liên hê giữa các yếu tố lịch sử và dân gian trong các hiện tượng văn hóa dân gian.

Đức Thánh Trần được thờ uy nghiêm trong các đền

Bên cạnh khuynh hướng lịch sử hóa huyền thoại về giới tự nhiên còn có một khuynh hướng khác, đó là huyền thoại hóa cuộc đời và những chiến công của các nhân vật lịch sử. Ở đây những hồi ức về lịch sử, đậm màu sắc dân gian được dân chúng bảo tồn, tiềm ẩn trong cõi sâu thẳm của tâm linh, và được truyền tụng từ đời này sang đời khác với một vòng hào quang thần thánh. Trong dòng tâm thức sùng kính đến mức thần hóa những người có công với nước với làng, người Việt đã tôn Thánh Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn – vị anh hùng dân tộc gắn liền với chiến công lẫy lừng của quân dân nhà Trần thế kỷ XIII ba lần đánh bại quân giặc Nguyên Mông. Đặc biệt hơn, vị Thánh cao cả này đã có được một dòng tín ngưỡng – phụng thờ: tín ngưỡng Đức Thánh Trần. Không gian thiêng của Thánh trải dài suốt từ Bắc đến Nam. Thời gian thiêng, theo sử sách ghi chép, cũng đã vượt qua bảy thế kỷ với bao biến động thăng trầm. Dù các lớp phù sa văn hóa chồng xếp, người ta vẫn có thể nhận ra những dấu ấn vật chất của tín ngưỡng thông qua một khối lượng khá lớn các truyền thuyết, di tích phụng thờ và các sinh hoạt lễ hội xoay quanh nhân vật lịch sử Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.

I. TRUYỀN THUYẾT, DI TÍCH VÀ LỄ HỘI

1. Truyền thuyết

1.1 Trong hệ thống thần linh của người Việt, Đức Thánh Trần là một nhân thần – một vị THẦN-NGƯỜI có thật trong lịch sử. Ông mang tên tuổi, quê quán gốc tích, hành trạng khá đầy đủ. Việc dân chúng nhiều đời suy tôn ông, huyền thoại hóa cuộc đời ông, dù màu sắc dân gian có đậm nét đến thế nào cũng vẫn bắt nguồn từ những tư liệu xác thực của lịch sử.

Ông tên thật là Trần Quốc Tuấn. Ông sống trọn vẹn trong thế kỷ XIII, mất ngày 20 tháng Tám, không rõ thọ bao nhiêu tuổi. Căn cứ vào gia phả họ Trần, các thư tịch Hán Nôm, có thể có nhiều giả thuyết khác nhau. Nhưng dựa trên tuổi của thân phụ-thân mẫu, anh trai, năm lập gia đình và đặc biệt là năm tham gia trận mạc, người ta dự đoán ông sinh trong khoảng từ 1230 – 1234, nghĩa là ông ra đời sau khi nhà Trần đã khởi nghiệp (1226) và phụng sự bốn đời vua Trần thịnh trị nhất.

Với dòng dõi tôn thất, ông là con trai thứ của Trần Liễu, anh trai vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh). Lúc mới sinh “có người thầy tướng trông thấy bảo rằng ”Người này ngày sau có thể giúp nước cứu đời”. Đến khi lớn lên, dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, xem khắp các sách, có tài văn võ”[1] . Ông soạn sách Binh thư yếu lược (Đại Việt sử ký toàn thư gọi là Binh gia diệu lý yếu lược) và Vạn Kiếp tông bí truyền thư. Chiến lược quân sự của Trần Quốc Tuấn là chiến lược sáng tạo hợp lý với những dân tộc nhỏ yếu trong cuộc đấu tranh chống một kẻ thù mạnh hơn gấp bội.

Trần Quốc Tuấn không chỉ là một nhà lý luận quân sự giỏi, mà còn là một vị tướng tài ba nơi trận mạc. Chức vụ thống lĩnh quân đội do vua phong đã được ông gánh vác xuất sắc và đó cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới thắng lợi rực rỡ của cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần hai và lần ba.

Ông là người có trí, có dũng. Cũng vì vậy mà giặc Bắc “khét tiếng ông, không dám gọi tên mà gọi là An Nam Hưng Đạo Vương”[2].Ông cũng là người có trung có hiếu. Câu nói khảng khái “Bệ hạ hãy chém đầu tôi trước rồi hãy hàng” biểu hiện lòng trung thành tuyệt đối của ông đối với đất nước. “Khoan thư sức dân là kế sâu rễ bền gốc” là chủ trương chính trị tiến bộ của triều Trần cũng do chính ông đề xướng. Đặc biệt còn phải nhấn mạnh tới lòng trung và cũng là “đại hiếu” của ông theo quan niệm Nho gia. Đặt quyền lợi của đất nước lên trên hết, thấu hiểu non sông xã tắc chỉ vững bền khi “vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, nước nhà góp sức” nên chính ông đã từ bỏ mối thù riêng của cha để hết lòng phụng sự đất nước, chủ động giao hảo, gạt bỏ hiềm riêng để tạo nên sự đoàn kết – sức mạnh của vương triều và cũng là của dân tộc. Đối với người dưới, Trần Quốc Tuấn là vị tướng sống có tín nghĩa, biết thu phục và trọng dụng người hiền tài. Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Trần Thì Kiến…là những dũng tướng, trung thần như thế.

Giữ lòng nhân ái với người, trung hiếu với quốc gia, tín nghĩa với anh em tướng sĩ, nhưng sau chiến thắng chống quân Nguyên Mông trên sông Bạch Đằng, dù có công rất lớn, Trần Quốc Tuấn vẫn rời Thăng Long, thanh thản về sống ở thái ấp Vạn Kiếp, nơi ông đã lập vườn Dược Sơn trồng cây thuốc. Ngay lúc ốm nặng thập tử nhất sinh, ông vẫn canh cánh nỗi niềm với đất nước, tâu lên vua kế sách sâu rễ bền gốc. Khi ông mất, vua Trần Thánh Tông làm bài văn bia ở sinh từ ví ông với Thượng phụ (tức Lã Vọng đã từng giúp Chu Vũ vương) và tặng danh hiệu “Thái sư thượng phụ, thượng quốc công, Nhân võ Hưng Đạo đại vương”. Sử thần Phan Huy Chú sau này đã viết lời án: “Danh tướng nhà Trần như Hưng Đạo Vương không mấy đời có; kiêm cả văn võ, thừa trí dũng, dựng nên công lao sự nghiệp kỳ vĩ mà giữ vững trung nghĩa cùng một hàng với Quách Tử Nghi. Ông không những là anh hùng của một thời đại mà cho đến các bậc tướng thần cổ kim cũng ít ai bì kịp” [3].

1.2 Với những chi tiết đặc biệt trong tiểu sử, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã bước vào đời sống dân gian và qua từng giai đoạn lịch sử, dường như hồi ức về cuộc đời ông lại có thêm những chi tiết mới – đậm màu sắc huyền thoại. Nếu như trong chính sử, ông là một vị tướng tài, thì trong tâm thức dân gian, ông được hình dung như một vị Thánh. Chúng ta bắt gặp điều này rõ nét trong các nguồn tư liệu Hán Nôm, kho thần tích, thần sắc, các văn bia, câu đối, các bài văn chầu dùng khi hầu Đức Trần Triều, hoặc từ các truyền thuyết truyền miệng trong các làng quê.

1.2.1 Trong các tư liệu dân gian, sự sinh hoá của Đức Thánh Trần được hình dung tương đối thống nhất. Mẹ Trần Hưng Đạo là Thiện Đạo quốc Mẫu nằm mơ thấy có “Thanh tiên đồng tử” (một số sách chép là “em bé áo xanh”) đầu thai xin được làm con. Về việc giáng trần này, có sách chép thêm: lúc bấy giờ có một người tên là Nguyễn Sĩ Thành đã chết, tự nhiên sống lại, kể chuyện mình đã nghe khi ở trên trời: ở huyện Đông Triều có người con gái họ Nguyễn, vợ của một thương khách ở Phúc Kiến, mơ thấy giao hợp với giao long, về sau đẻ ra một đức con- chính là kẻ sau này gây loạn cho đất nước. Thượng đế nghe tin, bèn cho Thanh tiên đồng tử có Kim đồng Ngọc nữ hộ vệ đi xe mây xuống phương Nam trừ họa giúp dân lành [4].

Trùng hợp với chi tiết này, theo “Ngọc phả nhà Trần” thì Việt điện u linh chép: “Thời kỳ đầu của nhà Trần, ở địa phận sao Dực, sao Chẩn có một dải khí trắng bốc lên đến trời. Thần Tản Viên thấy thế biết tới đây sẽ có nạn ngoại xâm, bèn tâu lên Thượng đế. Thượng đế hỏi “Ai có thể vì Trẫm quét sạch dải khí trắng đó, sẽ cho mang theo phi thần kiếm, cờ ấn, tam bảo của Lão Tử, Ngũ tài của Thái công giáng hạ vào nhà thân vương làm một vị danh tướng khi mất trở thành phúc thần không?`. Bấy giờ có Thanh tiên đồng tử xin đi”[5].

Nhiều tài liệu khác ghi, khi Trần Hưng Đạo ra đời, trong nhà tràn ngập hương thơm và ánh sáng. Một vị đạo sĩ, do coi thiên văn thấy có một vị tướng tinh rơi xuống, liền đến xem mặt Trần Quốc Tuấn. Khi nhìn thấy, vị đạo sĩ vội lui xuống, vái lạy nói: “Người này tốt lắm, về sau cứu nước giúp đời làm sáng sủa cho non sông đó”. Vương đầy một tuổi đã biết nói, năm, sáu tuổi đã biết làm thơ ngụ ngôn, bày chơi đồ bát trận, thông minh xuất chúng.

Như vậy, trong tâm thức dân gian, Trần Hưng Đạo có nguồn gốc trên thượng giới. Dân gian đã lắp ghép thêm vào tiểu sử của ông câu chuyện đầu thai – một mô típ khá phổ biến trong các câu chuyện dân gian, cũng là để lý giải căn nguyên của sự siêu phàm.

Nếu như Hưng Đạo Vương do Thanh tiên đồng tử đầu thai, thì khi mất đi, theo cảm nhận của dân gian, cái chết của ông cũng không thể bình thường. Trước khi ông mất, xem thiên văn thấy một vị tướng tinh cực to bay từ đông bắc sang tây nam rồi sà xuống đất, sáng lóe ra 10 trượng. Trong Trần thị gia huấn, việc mất của Hưng Đạo Vương được miêu tả: “Vào ngày 18/8 năm Hưng Long thứ 8 (1300), Vương đang tụng kinh ở trên núi, nghe nói chị mình mắc bệnh, bèn xuống hỏi thăm. Bà chị nói ngày tới sẽ về tiên tổ, Vương đáp “em còn chút việc bận, chị hãy đợi em đến sáng 20 cùng đi một thể”. Đến ngày đó, Vương không có bệnh gì mà mất. Trước khi mất, Vương dặn dò các con rằng: “Khi ta sống ba lần đánh quân Nguyên giết hại chúng rất nhiều, nên sau khi ta mất, họ sẽ tìm mộ ta. Trong tháng này, bí mật chôn ta ở vườn An Lạc, giả nói rằng an táng chị ta, táng xong nên để đá rất sâu rồi trồng cây lên trên. Sang tháng, về Tức Mặc phao tin ta mất ở đó rồi làm nghi thức an táng. Hài cốt phải dùng của viên quan sang trọng, chớ dùng của người thường dân, khó che mắt chúng. Ta đã dâng biểu tâu vua cho khu Bảo Lộc làm dân tạo lệ, lúc sống chưa từng đặt chân tới đó, không biết nay như thế nào. Vậy phải cho quan coi nơi nào đẹp đẽ hãy làm mộ giả và đốc việc chôn cất cho trang trọng mới che được con mắt ngờ vực của người ngoài”[6] (vì thế nay tại Bảo Lộc có một lăng ghi lăng mộ Hưng Đạo Vương, có quan tài bằng đồng nhưng tương truyền là của một viên bộ tướng).

1.2.2 Trong nhiều bản kinh như Trần Triều hiển thánh chính kinh, Đại hữu chân kinh, Hưng Đạo chính kinh bảo lục…đều có chép danh xưng Cửu Thiên Vũ Đế của Đức Thánh Trần. Bản Chính kinh Phạm Ngũ Lão được mở đầu bằng đoạn “Thánh Phụ dòng dõi võ tiên, núi non chung đúc, vũ trụ tạo linh. Thần dựa vào Nam Nhạc, ký thác Đông A, Vân La cố trạch, sinh vào mùa đông, Thanh Đồng xuất thế, Ngọc Đế khâm sai, trao cho Cửu Thiên nắm quyền Vũ Đế”[7]. Như vậy trong tâm thức dân gian, sau khi mất (hóa), Đức Thánh đã trở về Thiên đình nhận lệnh chỉ của Ngọc Hoàng phong là Cửu Thiên Vũ Đế với sứ mệnh diệt trừ yêu ma, tà đạo ở cả ba cõi Thượng giới (Thiên đình), Trung giới (trần gian), và Hạ giới (âm phủ). Với chức danh Cửu thiên Vũ Đế, Đức Thánh Trần của người dân Việt còn có quyền năng lớn hơn nhiều so với các vị Đế khác… Và, theo chuỗi suy tưởng của dân gian, vị Thánh là Tiên giáng trần cứu dân lành, sau khi hoàn thành sứ mệnh dẹp yên bờ cõi, trừ bọn yêu ma, lại quay trở về cõi Tiên và được phong Đế để tiếp tục hiển hóa và giúp dân giúp nước (âm phù).

1.2.3 Chi tiết được chú ý nhất và cũng đưa Trần Hưng Đạo có một vị trí đặc biệt trong tâm thức dân gian đó là câu chuyện liên quan đến Phạm Nhan. Chuyện Phạm Nhan được nhiều tài liệu Hán nôm ghi chép, như trong Công dư tiệp ký, Tang thương ngẫu lục, Trần Triều Hưng Đạo Vương truyện…vv. Chuyện Phạm Nhan được tóm tắt như sau: Nguyễn Nhan tên chữ là Bá Linh (ta thường gọi là Phạm Nhan). Một người Quảng Đông, sang buôn bán bên nước Nam, lấy vợ làng An Bài, huyện Đông Triều, sinh được Bá Linh. Bá Linh lớn lên theo cha về Tàu học hành giỏi, đỗ tiến sĩ triều nhà Nguyên. Y có phép tàng hình biến hóa thường vào cung trị bệnh cho cung nữ, nhưng hay tìm cách tư thân với cung nhân. Sau lộ chuyện, chúa Nguyên bắt được định án trảm quyết. Để lập công chuộc tội, Bá Linh tình nguyện xin đi làm hướng đạo đánh Nam quốc. Vì cao tay phù thủy nên hắn đã gây nhiều sóng gió cho quân đội ta. Hưng Đạo Vương sai người đi bắt, nhưng cứ bắt được thì hắn lại trốn thoát, chém đầu này lại mọc đầu khác. Chỉ khi đích thân Hưng Đạo Vương cầm kiếm chém thì Phạm Nhan mới chịu thua. Trước khi bị hành hình, Phạm Nhan có xin Hưng Đạo Vương: “Phải cho tôi ăn gì chứ”, Vương giận bảo: “Cho mi ăn máu đẻ của đàn bà”. Bởi vậy sau khi chết, hồn hắn đi đâu gặp sản phụ thì lập tức hớp hồn họ. Những người đàn bà đó sẽ bị ốm liên miên không thuốc gì chữa khỏi khiến họ rất sợ hãi. Người bệnh thường đến đền thờ Trần Hưng Đạo, lấy chiếu cũ trong đền, bất thần bắt người bệnh nằm lên, rồi đem chân nhang đốt ra tro quậy nước cho uống thì sẽ khỏi. Có người mới chỉ mang chiếu từ đền Vương về nhà thì bệnh cũng đã thuyên giảm. Chính vì thế, người ta cảm nhận được anh linh kỳ diệu của Trần Hưng Đạo.

Trong sách Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề có bài “An Bài xã dâm từ khả húy”(nên phá huỷ đền thờ nhảm nhí ở xã An Bài), có thêm một số chi tiết khác. Chẳng hạn, có hai người đánh cá đùa cợt rủ hồn Bá Linh đi chơi, họp thành nhóm ba người, nên người ta gọi bọn chúng là Tam hồn. Hễ khi muốn chòng ghẹo một phụ nữ, họ gọi tên Bá Linh và chỉ tay vào người, người ấy sẽ bị ma ám. Vì sợ hãi. họ phải lập miếu thờ.

Theo sách Thiên nam ngữ lục, Bá Linh là con của Long Vương. Sau khi bị Trần Hưng Đạo chém đầu, hồn Bá Linh trở về thuỷ phủ khóc lóc với cha. Long Vương vì thương con nên dùng phép biến hắn thành ba con quỉ cho quay lại dương gian và được gọi bằng ba cái tên: Nguyễn Ngông, Nguyễn Nghênh và Nguyễn Bá Linh. Ba con quỉ này thường trêu ghẹo đàn bà con gái, giở mọi trò quỉ quái. Nhân dân gọi chung là quỉ Phạm Nhan. Theo tư liệu của phó giáo sư Vũ Ngọc Khánh, từ Thanh Hóa trở vào, Nguyễn Ngông, Nguyễn Nghênh còn được gọi là Ngô Văn Ngạo hay Hoàng Văn Trọc [8].

Ở vùng Kiếp Bạc có lưu truyền câu chuyện Phạm Nhan gắn với công lao của một bà hàng cơm (nay vẫn còn nghè thờ cách đền Kiếp Bạc chừng 100m). Nhờ bà làm nội ứng nên Hưng Đạo Vương đã dùng chỉ ngũ sắc và đồ dơ bẩn để phá được tà thuật. Trước khi chết, Phạm Nhan có xin Hưng Đạo Vương chém hắn thành ba đoạn, một đoạn vứt xuống sông, một đoạn vứt lên bờ, còn một đoạn vứt lên rừng. Vương cho phép làm theo lời cầu xin ấy. Theo truyền thuyết, đoạn vứt xuống sông biến thành đỉa, đoạn vất lên bờ biến thành muỗi, đoạn vứt lên rừng biến thành vắt. Ngày nay những vật đó thường được dân gian gọi là giặc Phạm Nhan [9].

Như vậy, chuyện giặc Phạm Nhan bị Trần Hưng Đạo trấn áp, tiêu diệt là chi tiết phổ biến trong hầu hết các truyện tích dân gian. Ngay truyền thuyết về việc ra đời của Đức Thánh – Thanh tiên đồng tử – cũng đã có mạch nối với câu chuyện Phạm Nhan. Thanh tiên đồng tử giáng trần để trừng trị đứa con của giao long – gây họa cho dân lành, hay có sứ mạng để quét sạch dải khí trắng- điềm báo đất nước sẽ bị họa xâm lăng. Chính vì thế, theo logích cảm xúc dân gian, vị tiên áo xanh ấy có được sức mạnh kỳ diệu bởi vì ngay khi sinh đã được Thượng đế “cho mang theo phi thần kiếm, cờ ấn, tam bảo của Lão Tử, ngũ tài của Thái công” . Và cũng cái logíc đó đã tạo nên tính thiêng của Đức Thánh và niềm tin tưởng mãnh liệt của các tín đồ.

1.2.4 Trong những truyền thuyết dân gian về Hưng Đạo Vương có biểu tượng thanh kiếm thần được khai thác nhiều. Truyền thuyết của nhân dân vùng Thụ Khê (Hải Phòng) kể rằng sau khi chiến thắng, Hưng Đạo Vương đã quay lại và cắm một thanh kiếm trên đỉnh núi Thụ Khê – nơi mà xưa kia Vương đã lập đồn binh – để ghi nhận công lao của nhân dân địa phương.

Thanh kiếm dường như là một vật thiêng đã tạo cho Đức Thánh Trần một sức mạnh siêu phàm, bởi vậy mọi câu chuyện dân gian về ông đều gắn liền với kiếm thần. Trong ngôi đền thờ Trần Hưng Đạo ở làng Trung Bản (Yên Hưng, Quảng Ninh), tượng ông được tạc với tư thế chống kiếm, búi tóc bị xổ. Truyền thuyết vùng Kiếp Bạc còn kể, sau khi đất nước thái bình, Hưng Đạo Vương về nghỉ ngơi tại Kiếp Bạc. Một hôm, khi dạo chơi trên sông Thương, gần núi Dược Sơn, Hưng Đạo Vương cho dừng thuyền, rút kiếm khỏi bao và nói: “thanh kiếm này đã gắn bó với ta cả cuộc đời, đã từng dính máu nhiều quân giặc Thát, đã phải bôi phân gà sáp, vôi tôi và bồ hóng bếp để chém đầu tên Phạm Nhan dơ bẩn. Nay nhờ nước sông gột rửa sạch những vết nhơ”. Nói rồi Vương thả thanh kiếm xuống dòng sông. Hiện nay trước cửa đền Kiếp Bạc có nổi lên một bãi bồi chạy dài giống hình lưỡi kiếm, dân gian hình dung đó là thanh kiếm thần của Trần Hưng Đạo.

Hưng Đạo Vương đã nhiều lần được nhận sắc phong Thượng đẳng tối linh thần của các vương triều, được Nhà nước chính thức đưa vào thờ phụng trong các đền miếu. Sách Đại Nam nhất thống chí hay Nam Định dư địa chí đều chép: “Năm Minh Mạng thứ 4, cho được thờ vào miếu đế vương các đời. Năm Minh Mạng thứ 16, cho được thờ vào vũ miếu”. Nhưng sắc phong lớn nhất mà người dân Việt trong suốt bẩy thế kỷ qua đã phong tặng là ĐỨC THÁNH TRẦN, là VUA CHA, là ĐẾ. Cũng vì thế, vị Thánh này đã có ảnh hưởng khá lớn trong chiều sâu tâm tưởng và đời sống hàng ngày của những người dân lao động đất Việt.

2 Di tích:

Căn cứ vật chất rõ nhất để khảo sát không gian thiêng của tín ngưỡng Đức Thánh Trần là các di tích thờ cúng. Mặc dầu địa bàn hoạt động khi sinh thời của Trần Hưng Đạo là vùng đất Bắc, nhưng người ta nhận thấy ông được thờ phụng ở rất nhiều nơi. Vùng Châu On, Lạng Sơn hay cả ở châu Định Hóa, Thái Nguyên xa xôi cũng có những di tích lưu giữ thần tích thờ ông. Về phương Nam, Côn Đảo, Vũng Tầu đều có đền thờ. Di tích thờ Trần Hưng Đạo lớn nhất ở thành phố Hồ Chí Minh là đền Hưng Đạo Vương ở số 36 đường Võ Thị Sáu, phường 4, quận 1. Đền được xây dựng năm 1932 và mở rộng qui mô khang trang vào năm 1958. Ở cổng ngôi đền có dòng chữ Hán ghi :”Hiển thánh Trần triều Hưng Đạo Đại Vương linh từ”. Điều này cho thấy, ở đây cũng như ở nhiều nơi khác, người ta thờ Trần Hưng Đạo không đơn thuần vì ông là vị tướng tài, mà vì ông đã hiển Thánh, đã trở thành một vị Thánh trong tâm thức dân gian.

Tuy Trần Hưng Đạo đã được gia nhập vào nhiều điện thờ ở trên hầu khắp dải đất Tổ quốc – những nơi có dấu chân định cư của người Việt, nhưng, không gian thiêng của ông – vùng không gian cầu viện sự che chở phù trợ của ông một cách phổ biến nhất là xứ Nam (quê hương ông) và xứ Đông (thái ấp và địa bàn chiến trận). Trong bản thống kê do trường Viễn Đông Bác Cổ tập hợp năm 1930(“Thư mục thần tích thần sắc”) trong số 172 di tích có thần tích thần sắc của Trần Hưng Đạo (hoặc được thờ riêng, hoặc thờ chung với các vị thần khác như Quan Vân Trường, Mẫu Liễu Hạnh, quan Nam Hải, hay thần Cao Sơn, Pháp Vân, Pháp Lôi, hay Khổng Tử, Khổng Minh hoặc vài vị tướng lĩnh nhà Trần…) thì đã có 108 di tích thuộc xứ Nam (Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình) và 48 thuộc xứ Đông (Hải Dương, Hưng Yên, Quảng Yên).

Theo thống kê các di tích thờ Trần Hưng Đạo của các bảo tàng địa phương, ở Nam Định và Hà Nam – vùng đất phát tích của nhà Trần – có trên 200 di tích; Thái Bình có gần 40 di tích; Hải Dương và Hưng Yên gần 80 di tích, Hà Nội trên 50 di tích… Các địa phương như Hải Phòng, Quảng Ninh, Ninh Bình cũng có nhiều di tích thờ ông. Có nơi ông được thờ riêng, có nơi được phối tự cùng các vị thần khác

Ngoài những nơi thờ chính, Trần Hưng Đạo – Đức Thánh Trần còn được rất nhiều di tích thờ vọng. Con số nơi “thờ vọng” này rất khó thống kê chính xác. Thông thường, các đền thờ chính thường nằm ở vùng xứ Nam, xứ Đông. Còn ở các nơi khác như xứ Đoài, ông thường được thờ vọng bằng một gian thờ hoặc một ban thờ bên cạnh các ban khác..

Một điều rất đáng chú ý, Trần Hưng Đạo được phối tự trong hầu hết các điện thờ Mẫu dưới dạng ban thờ Trần Triều bên cạnh Tam toà Thánh Mẫu. Ngay tại Phủ Giầy, Nam Định- một trung tâm thờ Mẫu ở Bắc Bộ, tuy Lý Bí được coi là Đức Vua Cha nhưng Trần Hưng Đạo vẫn giành được một vị trí nhất định. Thậm chí đền Bắc Lệ thờ Mẫu Thượhg Ngàn ở Lạng Sơn cũng thờ ông. Ngược lại, trong những đền, điện thờ Trần Hưng Đạo, người ta cũng thấy sự hiện diện của hệ thống Tứ phủ. Căn cứ vào việc dân gian phối tự Đức Thánh Trần với các vị thần khác có thể nhận ra tính đa dạng trong tâm thức tôn vinh của dân gian đối với Trần Hưng Đạo: lúc thì ông trở thành CHA trong sự đối sánh với MẸ Liễu Hạnh; khi thì ông được đặt trong mối quan hệ với Tứ Pháp, lúc thì ông được thờ như một vị quan quân sự kiểu Quan Vân Trường, khi thì lại đơn giản như thờ cúng ghi công một anh hùng lịch sử….

Mặt khác, có thể thấy, hiện tượng “xin chân nhang” ở đền Kiếp Bạc, đền Bảo Lộc về để thờ vọng trong các di tích đã khiến cho không gian văn hóa của hiện tượng Đức Thánh Trần khá rộng. Nhất là khi khảo sát một số lượng khá lớn di tích thờ phụng Đức Thánh của các tư gia thường được gọi là tĩnh và điện. Tuy của tư gia “nhưng được dân chúng tới lễ bái trong các dịp tuần tiết sóc vọng, hoặc muốn cầu xin điều gì. Nhiều khi lễ bái rất đông, không kém gì một nơi thờ tự công cộng”[10]. Bài trí trong những ngôi điện này có nét đáng chú ý. Ban thờ thường có bài vị, tượng hoặc tranh vẽ Đức Thánh Trần, có thêm kiếm ấn. Trên mái điện thường cài rất nhiều roi dâu dùng để tra khảo tà ma. Có thể nói, Trần Hưng Đạo là một trong số rất ít nhân vật lịch sử được thiêng hóa trong một không gian rộng lớn như vậy.

Trong số các di tích “công cộng” tôn thờ Đức Thánh Trần, những di tích nổi tiếng nhất có Bảo Lộc, Cố Trạch ở Nam Định, Trần Thương ở Hà Nam, Kiếp Bạc ở Hải Dương, A Sào, Đồng Bằng ở Thái Bình – đây là những vùng đất gắn bó chặt chẽ nhất với cuộc đời và sự nghiệp anh hùng của ông. Nhân dân vẫn thường truyền tụng câu: “Sinh Kiếp Bạc, thác Trần Thương, quê hương Bảo Lộc”.

Bảo Lộc trước đây có tên là đền An Lạc, thuộc làng Bảo Lộc, tổng Hữu Bị, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, nay thuộc xã Mỹ Phúc ngoại thành Nam Định. Tổng thể đền Bảo Lộc hiện nay bao gồm đền giữa thờ Hưng Đạo Đại Vương, bên trái là chùa thờ Phật, bên phải thờ Mẫu, đằng sau là đền Khải Thánh thờ thân phụ, thân mẫu.Đền Bảo Lộc được xây theo hình chữ đinh ( ) với tiền đường 7 gian, trung đường 5 gian và hậu cung 3 gian. Trong đền thờ, từ ngoài vào trong, trước tiên là bàn thờ ngũ dinh, các quan Trần Triều, rồi đến tượng Hưng Đạo Vương bằng đồng, tiếp theo là bàn thờ con trai cả Hưng Vũ Vương Nghiễn và con rể Phạm Ngũ Lão. Trong hậu cung, tượng Hưng Đạo Vương bằng gỗ được đặt chính giữa, hai bên thờ hai vị: thầy dạy chữ và thầy dạy binh (binh pháp).

Khu di tích này còn bao gồm lăng mộ Trần Hưng Đạo được xây dựng ở đầu làng, cách đền Bảo Lộc chừng 600m, gồm một nhà dâng hương, một mộ có hai lần tường bao. Hai con hổ đứng gác cửa vào lăng được dân gian gọi là Thanh hổ đại tướng và Hoàng hổ đại tướng.

Cho đến nay chúng ta vẫn không thể biết “ống tròn đựng xương” của Vương ở đâu, nhưng dù sao, việc người dân An Lạc cho xây lăng Trần Hưng Đạo tại đây kèm theo câu chuyện để lý giải cho việc đó cũng bộc lộ một khía cạnh của tâm thức dân gian về vị Thánh này.

Đền Trần Thương thuộc thôn Trần Thương, xã Nhân Đạo, huyện Lý Nhân tỉnh Hà Nam. Sử sách đều ghi Hưng Đạo Vương mất ở Kiếp Bạc, nên câu ca “thác Trần Thương” không mang ý nghĩa chỉ là nơi mất mà là sinh phần – nơi gửi phần mộ lúc còn sống.

“Trần Thương” nguyên nghĩa là kho lương nhà Trần. Xưa kia, đây là vùng bãi sậy um tùm. Trên đường hành quân qua, Hưng Đạo Vương thấy thế đất đẹp và kín đáo, thích hợp cho việc đặt một kho lương. Sau khi chiến thắng, Vương trở về, đặt kho lương và cắm sinh phần tại đây, từ đó xuất hiện địa danh Trần Thương và các thôn thuộc xã Nhân Đạo như: Đội Xuyên, Hoàng Xá, Khu Mật… Như vậy, địa danh này đã có ngay từ thế kỷ XIII. Đền thờ Trần Hưng Đạo được lập ngay sau khi ông mất, nhưng kiến trúc ngôi đền hiện nay mang dấu ấn thời Nguyễn. Đền có ba cung: đệ nhất, đệ nhị, đệ tam, với nhiều đồ thờ cúng, hoành phi câu đối. Pho tượng đồng “Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương” được đặt trang trọng trong khám lớn ở cung đệ tam (hậu cung).

Ngoài Trần Thương, khi bàn đến các kho lương của cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông, cần phải nhắc tới địa danh đã từng được nhắc đến trong sử sách: A Sào. A Sào thuộc huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Sách Thái Bình địa dư chí ghi rằng: “Quốc Tuấn năm 18 tuổi (1250) được phong Thượng vị hầu, vâng mệnh đến trấn thủ ở khu A Sào, trang An Hiệp. Sau Hầu được triệu về kinh giữ chức Phụ chính rồi phong Hưng Đạo Vương”. Nhiều cứ liệu thần tích thần phả cũng như truyền thuyết cho thấy xưa kia Hưng Đạo Vương đã từng đặt một đại bản doanh ở đây và xây dựng nhiều kho gạo quanh khu vực A Sào, Đại Nẫm. Ngoài ra, A Sào còn là nơi rèn đúc vũ khí, nơi luyện binh. Trong đền cũng có tượng thờ Trần Hưng Đạo.

Trong số những ngôi đền thờ Trần Hưng Đạo, lớn nhất là đền Kiếp Bạc. Kiếp Bạc là tên ghép hai xã Vạn Yên (làng Kiếp) và xã Dược Sơn (làng Bạc), thuộc xã Hưng Đạo huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Phần lớn cuộc đời Hưng Đạo Vương gắn bó với vùng Vạn Kiếp mà Kiếp Bạc là trung tâm. Ông đã dựa vào địa thế vùng Vạn Kiếp để lập phòng tuyến trấn giữ mặt đông bắc tổ quốc. Trong kháng chiến chống Nguyên lần 2 (1285), Trần Hưng Đạo tập trung trên 20 vạn quân và hàng nghìn thuyền chiến ở Vạn Kiếp và đã lập một chiến công huy hoàng tại đây. Khi đất nước thanh bình, Vương lại về Vạn Kiếp để an nghỉ tuổi già và đây là nơi ông đã trút hơi thở cuối cùng .

Có thể nói, không nơi nào trên đất nước ta có nhiều địa danh lưu giữ dấu vết liên quan đến Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn như Kiếp Bạc. Người ta có thể chỉ đây là sinh từ (đền thờ khi Hưng Đạo Vương còn sống), đây là xưởng thuyền, kia là vườn thuốc, lò gốm, viên lăng…tất cả đều mang những kỷ niệm về Đức Thánh. Dược Sơn (Dược lĩnh cổ viên) là ngọn núi tương truyền nơi Vương cho trồng cây thuốc nam để cứu chữa cho binh lính và dân cư trong vùng. Cụm di tích này còn có hai ngôi đền mang tên Nam Tào, Bắc Đẩu nằm trên hai ngọn núi, đối xứng nhau qua đền Kiếp Bạc. Tương truyền đền có từ rất sớm, đền Nam Tào thờ quan Nam Tào cầm sổ sinh, đền Bắc Đẩu thờ quan Bắc Đẩu cầm sổ tử. Ở đây, quan Bắc Đẩu được đồng nhất với Dã Tượng, quan Nam Tào được đồng nhất với Yết Kiêu – hai vị tướng trung thành của Trần Hưng Đạo. Với những dấu ấn văn hóa lịch sử, hai ngôi đền này đã góp phần to lớn vào việc nâng cao giá trị của đền Kiếp Bạc.

Đền Kiếp Bạc được xây dựng trên khu đất bằng ở trung tâm thung lũng núi Rồng. Ngay sau khi ông mất (năm 1300), người ta đã cho xây dựng đền Kiếp Bạc, nhưng cùng với thời gian, dấu vết Trần và Lê đã mất. Ngôi đền hiện nay hoàn toàn mang dáng dấp thời Nguyễn, được trùng tu tôn tạo lớn vào cuối thế kỷ XIX, đầu XX. Thời tạm chiếm, đền bị huỷ hoại nhiều. Mãi đến đợt trùng tu sửa chữa lớn năm 1979, nhiều phần của đền Kiếp Bạc cũng như các di tích Nam Tào, Bắc Đẩu mới được dựng lại. Giữa sân đền có nhà Bạc chồng diêm tám mái, là nơi trình lễ trước khi vào đền chính. Hai bên sân, tả hữu Thành các và Giải vũ là nơi soạn lễ, chỉnh trang lễ phục trước khi vào lễ Thánh.

Sau nhà Bạc là đền chính. Đền kiến trúc theo kiểu chữ Đinh ( ), bao gồm tiền tế, trung từ, và hậu cung. Tiền tế gồm 5 gian là nơi tiếp khách trình lễ. Trung từ đặt ngai và bài vị của bốn con trai Trần Hưng Đạo là Trần Quốc Hiến, Trần Quốc Nghiễn, Trần Quốc Tảng, Trần Quốc Uy và ban thờ Phạm Ngũ Lão. Hậu cung có bốn ban thờ: Đức Thánh Trần; Nguyên từ Quốc Mẫu Thiên Thành công chúa (phu nhân Trần Hưng Đạo); đệ nhất Khâm từ Hoàng thái hậu Quyên Thanh công chúa (con gái thứ nhất, vợ Trần Nhân Tông); đệ nhị nữ đại Hoàng Anh nguyên quận chúa (vợ Phạm Ngũ Lão). Các pho tượng đồng được đặt trong các khám lớn sơn son thếp vàng và nhiều hình trang trí. Đặc biệt, tượng Trần Hưng Đạo đặt trong khám lớn, xung quanh khám phủ vải đỏ. Tượng ngồi trên bục dáng uy nghi, hai tay đặt trên đùi, tay phải úp xuống, tay trái ngửa lên cầm hạt ngọc.

* * *

Những di tích lớn thờ Trần Hưng Đạo trên đây là những nơi có sắc chỉ thờ phụng của các vương triều. Theo tác giả Hoàng Giáp, trong các tư liệu Hán Nôm, với tư cách Cửu Thiên Vũ Đế, các đền thờ chính Trần Hưng Đạo được sắp xếp theo thứ tự: thứ nhất là Kiếp Bạc, thứ hai A Sào và thứ ba là Bảo Lộc. Các đền khác chỉ là vọng từ. Về sự ủng hộ của vương triều đối với các di tích, sách Trần Triều hiển thánh có chép: “Nhà vua coi đền như Vương miếu ngàn năm phụng thờ, nghi lễ như thờ Đức Khổng Phu Tử. Nhà vua thương nhớ đức Đại Vương không bao giờ nguôi, bèn sai thợ dùng gỗ bạch đàn hương tạc thành thần tượng Đại Vương, ngày đêm hương lửa phụng thờ. Phàm có quốc gia đại sự vua phải cầu xin. Chư vương khanh tướng, mỗi khi phụng chỉ ra trận, phải đến bái yết rồi mới xuất quân. Mọi việc cầu xin đều linh ứng”[11]. Rõ ràng, sự sùng tín của vương triều, sự bảo trợ của nhà nước trong việc sửa sang đền miếu, đôn đốc hương khói và tổ chức quốc lễ là một nguyên nhân quan trọng phần nào khích lệ sự phát triển nhu cầu tâm linh của dân chúng đối với Đức Thánh. Và nhu cầu ấy được thăng hoa trong một thời điểm đặc biệt: lễ hội giỗ Cha.

3. Lễ hội Đức Thánh Trần

Có lẽ người dân ở vùng đồng bằng Bắc Bộ ai cũng biết đến câu ca “Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ”. Theo lịch sử, Hưng Đạo Vương mất tại Kiếp Bạc ngày hai mươi tháng Tám. Tâm thức dân gian coi ngày mất của ông cũng chính là ngày “giỗ Cha” – người Cha thiêng liêng trong sự đối sánh với Mẹ – Mẫu Liễu Hạnh. Hàng năm vào tháng Tám âm lịch, người dân ở khắp mọi miền quê lại nô nức đi về Bảo Lộc, Kiếp Bạc, đền Đồng Bằng với tâm thức đi “giỗ Cha”. Bởi vậy, đây được coi là thời điểm thiêng nhất của Ngài. Tại đền Bảo Lộc, theo truyền thuyết, Hưng Đạo Vương mất ngày 20/8 thì đến ngày 26/8 dân Tức Mặc, Bảo Lộc đã được phép đặt bát nhang thờ và bàn việc sửa nơi ở cũ thành đền thờ. Đền Bảo Lộc có hiệu là An Lạc Viên từ, đền Tức Mặc có hiệu là Cố Trạch linh từ. Cả hai đền đều do nhà Trần chịu trách nhiệm tế lễ và làm quốc tế. Trước ngày 20/8 làm lễ cáo, lễ xôi thịt lợn thịt gà. Sáng ngày 20/8, xã Tức Mặc sắm lễ tam sinh ở đền Cố Trạch, xã Bảo Lộc lễ tam sinh ở đền An Lạc rồi rước chân nhang về đền Cố Trạch. Vào khoảng cuối giờ Thìn, đầu giờ Tị rước bát nhang Vương sang lễ tại đền Thiên Trường, cuối giờ Tị rước về, sau đó rước kiệu bát cống từ đền Cố Trạch trở về An Lạc tế Thánh Phụ Thánh Mẫu vào đầu giờ Mùi. Tối ngày 20 lễ trừ thổ ôn, thổ khí, tà quỉ ở đền An Lạc cho đến tận sáng, trưa 21 lễ tạ ở đền. Trưa 21 dân Tức Mặc cũng rước Hưng Đạo Vương sang chùa Tháp tế vua Nhân Tông một tuần rồi rước lại, trời tối thì lễ tạ. Theo tác giả Dương Văn Vượng, dựa vào sách Trần gia phả ký năm Chính Hoà thứ nhất (1680) và lời kể của một số cụ trong họ Trần thì trong các kỳ lễ của nhà Trần ở Bảo Lộc rất hay lễ cá. Ví dụ, ngày lễ đầu năm (16 tháng Giêng) tế cá. Cá gồm một đôi cá triều đẩu (cá quả), 10 con long ngư (cá chép). Cá quả mỗi con một cân, cá chép mỗi con hai cân. Tất cả cá sống đựng trong 11 cái thùng sơn đỏ đặt trước bát nhang công đồng. Tế từ sáng đến trưa thì thả cá ở sông Hồng. Vào ngày lễ Tổ cũng tế 20 con cá chép một cân. Sau khi tế, chia cho 14 xã bên, mỗi xã một con thả ở ao làng, 5 con thả ao trước đền Thiên Trường, một con thả ao trước đền Cố Trạch. Đây có lẽ là những dấu vết gốc dân chài (thờ cúng cá) của họ Trần.

Cũng như ở Bảo Lộc, tại đền Kiếp Bạc, lễ hội Đức Thánh Trần thực chất diễn ra ngay từ đầu tháng Tám. Người ta kéo về đây từ mọi ngả đường, trên bến dưới thuyền. Xưa kia vào ngày kỵ Trần Hưng Đạo, các quan trong triều đình đều đến đền dự và dâng hương. Ngày nay, vào 10/8, dưới sự chứng kiến của Uỷ ban nhân dân và một số cấp chính quyền, người ta làm lễ mở cửa đền, bắt đầu lễ hội. Ngày 18/8, nhà nước tổ chức dâng hương. Lễ chính tiến hành vào ngày 20/8 thường do làng Vạn (tổng Trạm Điền), làng Bạc (tổng Chi Ngại) chịu trách nhiệm. Làng Vạn xưa có tám giáp, mỗi giáp phải chuẩn bị một con lợn khoảng 80 kg làm sạch, để sống và một cỗ bánh đường đặt lên mâm tập trung trước Nghi môn. Sau phần tế lễ, đám rước được cử hành. Điều đáng chú ý là có nghi thức rước kiệu trên sông nhằm tái hiện lại trận thắng thủy chiến oai hùng của Trần Hưng Đạo trên sông Bạch Đằng. Vào chính hội 19/8, các thuyền tập trung đông đặc ở bến sông để chuẩn bị cho đám rước. Kiệu thờ Hưng Đạo Vương được rước đặt lên thuyền rồng rời bến với một loạt những thuyền hộ tống trang trí rất đẹp, trong tiếng reo hò cổ vũ của đông đảo nhân dân tham gia. Sau một thời gian diễu hành trên sông, đoàn thuyền lại quay trở về vị trí cũ và kiệu thờ lại được rước vào yên vị trang trọng trong đền. Ngoài ra, trong ngày hội, tuỳ năm mà người ta tổ chức nhiều trò chơi khác, ví dụ bơi trải, đua thuyền, múa rối nước, cờ người, hội vật…sôi nổi hấp dẫn.

Ngoài Kiếp Bạc và Bảo Lộc, hàng năm Lễ hội tháng Tám giỗ Cha còn diễn ra ở hầu hết các di tích thờ Đức Thánh Trần dưới các hình thức tế lễ cúng bái, trong đó khá tiêu biểu là đền Đồng Bằng, Thái Bình:

Dù ai buôn xa bán xa
Hai mươi tháng Tám giỗ Cha thì về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Hai mươi tháng Tám thì về Đào thôn

Đền Đồng Bằng xưa thuộc thôn Đào Động, tổng Vọng Lỗ huyện Phụ Phượng, nay là xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, Thái Bình. Theo thần tích của đền thì đền Đồng Bằng trước chỉ là một miếu nhỏ thờ thành hoàng làng Đào Động vốn là thủy thần, được gọi là Đức Vua Đệ Nhất, ngày mất 28/8, có sắc phong từ thời Vua Hùng”Trấn tây An Vĩnh Công Bát Hải đại vương”. Có lẽ vậy mà đền còn có tên là đền Bát Hải, đền Vua Cha. Hội đền mở vào ngày 16/8, chính hội vào 20/8 – ngày mất của Trần Hưng Đạo và kéo dài đến ngày 28/8 – ngày mất của Đức Vua đệ nhất. Như vậy, tháng Tám giỗ Cha là giỗ “Cha Trần Hưng Đạo” hay “Cha Bát Hải đại vương” ?

Tương truyền, vào thế kỷ XIII, Hưng Đạo Vương đã đến thăm đền và đã có thời gian nghỉ tại đây (một số truyền thuyết khác chỉ nói đến việc ghé chân của các tướng lĩnh nhà Trần). Xung quanh khu vực đền Đồng Bằng cũng còn nhiều dấu vết của cuộc kháng chiến thời Trần, nhiều di tích thờ các tướng lĩnh đời Trần. Bởi vậy mà từ sau thế kỷ XIII, từ chỗ chỉ là một đền thờ thủy thần, với sức hút của tâm thức đề cao anh hùng cứu nước, người dân đã đưa Đức Thánh Trần vào đền thờ và lấy ngày mất của ông làm ngày chính hội. Hình thức hội đặc biệt nhất ở đền Đồng Bằng là tục đua thuyền, bơi trải mà một số người cho là có gắn với thủy quân nhà Trần. Nhưng chúng tôi muốn lưu ý tới hình thức hầu bóng, hát chầu văn ở đền của các con nhang đệ tử, các thanh đồng. Trong bài viết Phác thảo về đình và sự phụng thờ thần thành hoàng của các làng ở Bắc Kỳ, ông Nguyễn Văn Khoan đã nhận xét rằng: “Ba việc thờ phụng chính của dân gian chia theo nguyện vọng của quần chúng: thờ phụng các chư vị, thờ các tướng của Trần Hưng Đạo và thờ phụng các linh hồn ở dưới cõi âm, quỉ sứ. Những người chuyên thờ các chư vị là các bà đồng, những người chuyên thờ các ông tướng của Trần Hưng Đạo là các ông đồng hoặc các thầy pháp, nhưng người chuyên thờ các linh hồn âm phủ là các thầy bùa hoặc các thầy phù thủy”[12]. Như vậy, phải chăng đã có riêng một phái chuyên thờ Trần Hưng Đạo – Đức Thánh Trần?

Nếu như những người theo đạo của Bà Liễu Hạnh được gọi là đồng cốt (bà cốt, bà cô tí) thì những người theo Đức Thánh Trần được gọi là Thanh đồng: “Thanh đồng là những người thờ về đức Thánh Trần…Đàn bà sinh sản đau yếu, hoặc con gái hiếm muộn, thường cho là bệnh Phạm Nhan làm, hoặc là tiền kiếp phu thê ghen tuông hoặc là vì thạch tinh cốt khí yêu ma quỉ quái ám ảnh mà thành bệnh. Người có bệnh đem vàng hương giàu rượu đến cửa điện lễ bái, nhờ thanh đồng kêu khấn xin Thánh trừ tà cho”[13]. Trong Việt Nam văn hóa sử cương, ông Đào Duy Anh viết: “Những người chuyên thờ Thánh Hưng Đạo (Thánh Trần) thường gọi là thanh đồng hay ông đồng. Những ông đồng thờ ngài phải lập tĩnh trong nhà. Mỗi năm đến ngày 20 tháng 8, là húy nhật, các ông đồng phải tề tựu ở đền Kiếp Bạc tỉnh Hải Dương, hay ở đền Bảo Lộc, đền Tức Mặc ở Nam Định để lễ bái”[14] (từ “thanh đồng” phải chăng bắt nguồn từ nguồn gốc Thanh tiên đồng tử của Thánh?). Nói về cách các ông đồng trừ tà ma, Phan Kế Bính có nói tới hai cách. Cách thứ nhất, “người có bệnh ngồi đồng bịt cái khăn tay đỏ vào mặt, rồi thanh đồng cầm vài nén hương thư phù vào mặt mũi và đôi bàn tay người ngồi đồng, niệm chú một vài câu, lại có bọn cung văn đánh trống gõ phách đọc bài văn sai để ốp đồng một lúc thì người ngồi đồng lảo đảo, tà ma nhập vào mình như bị thôi miên. Thanh đồng quát mắng hỏi tra như quan tấn tù. Người ngồi đồng hoặc tự mình cầm vồ đập vào đầu mình, hoặc cầm bàn vả tát vào má, hoặc cầm roi đánh vào mình. Khi nào tà ma cung chiêu nhận tội thì thanh đồng truyền lịnh thánh bắt phải làm tờ cam kết, từ rày không được quấy nhiễu người ta. Trong tờ cũng ký tên điểm chỉ, rồi thanh đồng truyền làm tội gì, tà ma phải chịu, tờ cam kết ấy, người có bệnh lĩnh về mà dán trên chỗ nằm”[15]. Ông Toan Ánh còn viết “người ta bảo rằng dấu tay trên tờ cam kết tuy người bệnh in vào nhưng không là dấu của người bệnh, đó là dấu tay của con tà, so sánh với tay người bệnh khi hết bệnh thì không giống nhau”[16]. Có sách đã miêu tả: “Trong ngày hội này, trước sân đền đâu đâu ta cũng thấy cảnh tượng những người phụ nữ không đẻ con, hay sinh con nhưng không được, quỳ niệm thần chú. Một ông đồng mặc quần áo lòe loẹt, dắt cờ xanh đỏ quanh người, nhảy múa, gõ trống, khua thanh la để đuổi tà ma đang ẩn nấp trong người chị để làm hại. Một lúc, từ chỗ sợ sệt, chị ta cảm thấy mình bị thôi miên và bỗng nhiên như nhìn thấy hồn ma Phạm Nhan, chị lăn lộn, đập đầu xuống đất như để xua đuổi, đánh đập chính tà ma. Có người như không chịu đựng được đã ù té chạy ra sông, lao xuống dòng nước như để dìm chết hồn ma. Tới khi lả đi vì mệt, người ta vớt chị lên, thân thể rũ rượi, coi như hồn ma đã bị xua đuổi”[17].

Còn một cách trừ tà khác là khi thánh đã nhập vào thanh đồng, thì thanh đồng ra oai “cho mắt trần biết phép Thánh”, lấy lụa tự thắt cổ, nung đỏ lưỡi cày rồi xỏ chân vào, nấu dầu sôi uống rồi phun ra, hoặc cho cả nắm hương đang cháy vào miệng, xiên lình hay dùng dao rạch lưỡi. “Khi rạch lưỡi chảy máu thì phun ra một tờ giấy (để làm bùa gọi là dấu mặn), để cho người có bệnh đem về đốt ra lấy gio hòa với tàn hương nước thải mà uống, hoặc phát bùa để người ốm đeo vào mình”[18].

Ở đền Đồng Bằng, hầu bóng diễn ra tấp nập đặc biệt vào dịp hội. Trước khi hầu, hay hát chầu văn, họ thường khấn lạy mời Đức Thánh Trần và Đức Vua Đệ nhất (Bát Hải đại vương), và các vị tướng lĩnh của hai ngài về ngự. Các bản “Văn Triều Trần”, văn “Đức vua Bát Hải”…thường được sử dụng. Cách thức hầu về cơ bản giống với hầu Tứ Phủ, cả về trang phục, về âm nhạc và múa thiêng: cũng chùm khăn phủ diện mời thần linh nhập vào thanh đồng, nếu thần nhập thì sẽ tung khăn phủ diện (một số đệ tử cho biết, Quan bên hệ thống Trần Triều ra hiệu ngón tay cái, khác với Quan bên hệ thống Tứ phủ ra hiệu bằng những ngón khác). Trong lúc hầu, các cung văn sẽ trổ hết tài nghệ kể sự tích lai lịch của vị thần và tán tụng, ca ngợi. Ở đền Kiếp Bạc, thường hầu Tam toà Thánh Mẫu trước rồi đến Phủ Trần Triều (Đức Thánh Trần, Đệ tam hoàng tử-con trai Trần Hưng Đạo, hai cô con gái), sau đó mới đến các cấp trong Tứ Phủ: hàng Quan, hàng Chầu, Cô, Cậu…. Ở đền Bảo Lộc, theo thủ nhang cho biết, khi hầu, Đức Thánh Trần rất ít khi “lên”, chỉ Đức Thánh Phạm (Phạm Ngũ Lão) thỉnh thoảng có lộ diện. Những người hầu đồng phải ăn chay thanh tịnh sạch sẽ. Một số người khi hầu mang theo mâm gạo, khi Thánh về sẽ viết chữ phán truyền trên mâm gạo đó – một hình thức giáng bút.

Cũng như trong lễ thức thờ Mẫu, các hoạt động hầu bóng ở lễ hội Đức Thánh Trần đã có tác dụng bảo tồn hình thức diễn xướng dân gian truyền thống hát chầu văn, múa thiêng và cách trình diễn của loại hình sân khấu tâm linh. Đã có một thời gian, hầu đồng bên Trần Triều nhập vào với hệ thống Tứ Phủ thờ Mẫu, nhưng gần đây lại có xu hướng tách ra thành một hệ thống riêng biệt, chủ yếu nhằm chữa bệnh và trừ tà ma.

Hiện nay, bên cạnh hầu đồng còn có nhiều hình thức khác, ví dụ trong các đền có bán các loại bùa bằng giấy như bùa chấn trạch, bùa hộ mệnh…Sau khi lễ Thánh, người ta đem về dán ở nhà hoặc đeo vào người. Một số hình thức trừ tà ma trước đây, nay đã mất như xiên lình, rạch lưỡi, phép phù thủy…. Những người bị bệnh (đặc biệt những bệnh thần kinh, điên, nghi bị ma ám, người mắc chứng vô sinh hay hữu sinh vô dưỡng) vẫn đến đền Kiếp Bạc cầu khẩn Đức Thánh Trần. Sau khi khấn, xin âm dương, nếu được thì ra chỗ thủ nhang đóng dấu đồng màu đỏ vào giấy bản màu vàng, rồi lại vào cung, đến bàn thờ Đức Thánh Trần lễ trình. Sau đó họ mang tờ giấy bản đốt hòa lẫn vào rượu và nước cúng, chắt nước trong uống, bã tro thì dùng để day vào thái dương hoặc xoa từ ngực trở xuống. Theo các cụ cho biết, nhiều người đã làm như thế và “khỏi bệnh”.

Ngoài ra, tại các đền thờ Đức Thánh Trần hoặc các chùa có ban thờ ông, còn phổ biến hình thức bán khoán cho trẻ em trong vòng 12 năm. Những đứa trẻ khó nuôi, người ta có lệ đem bán cho Đức Thánh Trần, dùng oai của Ngài để trấn mọi ma tà quỉ dữ, cho đứa trẻ lớn ngoan ngoãn và khoẻ mạnh. Thậm chí, có người còn đổi họ cho con thành họ Trần.

* * *

Bằng chứng cứ văn bản thần tích, truyền thuyết, các bài tụng ca của nhiều đời, các di tích phụng thờ và các nghi thức tế lễ hội hè, có thể khẳng định Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn có một vị trí rất quan trọng trong tâm thức dân gian người Việt với một vòng hào quang thần thánh. Một nhân vật lịch sử, một anh hùng cứu quốc đã trở thành một vị Thánh. Sự chuyển hóa từ Trần Hưng Đạo đến Đức Thánh Trần cần được lý giải sâu hơn về bản chất cũng như những căn nguyên xã hội lịch sử của nó.

Phạm Quỳnh Phương (Viện Nghiên cứu Văn hóa) 

Chú thích.

[1] Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê Đại Việt sử ký toàn thư, tập II. Nxb KHXH, H,1971, tr.89
[2] Ngô Sĩ Liên……Sđd,tr.91
[3] Phan Huy Chú. lịch triều hiến chương loại chí, tập I.NxbKhxh, H.,1992, tr.
[4] Ngọc phả nhà Trần. Tư liệu Hán Nom, Dương Văn Vượng dịch , chép tay.
[5] Ngọc phả nhà Trần. Sđd
[6] Trần thị gia huấn. Tư liệu Hán Nôm. Dương Văn Vương dịch, chép tay.
[7] Hoàng Giáp. Cửu thiên Vũ Đế Trần Hưng Đạo. Kỷ yếu hội thảo Thời Trần và Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trên quê hương Nam Hà. Sở VHTT Nam Hà xb, 1996, tr.259
[8] Vũ Ngọc Khánh. Sự thật trong việc thờ cúng dị đoan. Nxb Thanh Hóa, 1984, tr.47
[9] Đền Kiếp Bạc và truyền thuyết. Hội VHNT Hải Hưng, 1994, tr.8-9
[10] Toan Ánh. Nếp cũ-tín ngưỡng Việt Nam. Nxb tp HCM, 1991, tr.231 [11] Hoàng Giáp…..Sđd, tr.160
[12] Nguyễn Văn Khoan. Phác thảo về đình và sự phụng thờ thần thành haòang của các làng ở Bắc Kỳ.BEFEO, t.XXX, 1930, 1-2, bản chép tay
[13] Phan Kế Bính. Việt Nam phong tục. Nxb tp HCM, 1992, tr.298
[14] Đào Duy Anh. Việt Nam văn hóa sử cương. Nxb tp HCM, 1992, tr.246
[15] Phan Kế Bính. Sđd, tr.298
[16] Toan ánh. Sđd, tr.230
[17] Ngô Đức Thịnh chủ biên. Đạo Mẫu ở Việt Nam. Nxb VHDT, H.,1996, tr.67
[18] Phan Kế Bính. Sđd, tr.299

Nguồn: http://trantrieuhienthanh.blogspot.com/search/label/T%C3%8DN%20NG%C6%AF%E1%BB%A0NG%20%C4%90%E1%BB%A8C%20TH%C3%81NH%20TR%E1%BA%A6N

Tag :

X

Live chat fanpage

Bạn cần tư vấn ?