Chùa Thầy còn bảo lưu được 36 pho tượng cổ, niên đại từ thời Lý đến thời Nguyễn, xếp thứ 3 về số lượng tượng cổ (sau chùa Mía có 252 pho và chùa Cói có 37 pho).
Toà Điện Phật bài trí 6 lớp tượng. Tam Thế Phật ngự trên tầng cao nhất của toà Điện Phật, cả ba pho đều trong tư thế thiền định, chân xếp chữ X, cùng kích thước (cao 0,82m).
NHỮNG PHO TƯỢNG QUÝ
Toà Điện Phật bài trí 6 lớp tượng. Tam Thế Phật ngự trên tầng cao nhất của toà Điện Phật, cả ba pho đều trong tư thế thiền định, chân xếp chữ X, cùng kích thước (cao 0,82m). Pho ở giữa với mái tóc kết xoắn ốc, khoác cà sa chùng rộng, nếp áo phủ cân xứng qua hai bờ vai. Pho bên trái, cổ đeo chuỗi anh lạc, tay trái đặt lên gối trái, nếp áo cà sa luồn thưa hơn, vắt từ vai trái qua vai phải. Pho bên phải, tay trái đặt trước lòng với ngón cái cong lên, tay phải đặt ngửa trên đùi phải.
Toà Điện Thánh bài trí nhiều pho tượng cổ quý giá: bộ Di Đà Tam Tôn; tượng A Di Đà nhỏ (TK 17); tượng Từ Đạo Hạnh; tượng Lý Thần Tông; tượng Phỗng…
Hai dãy hành lang bên ngoài Điện Phật bày 18 vị La Hán
A Di Đà ngự chính giữa, vị trí cao nhất phía trong cùng của gian giữa toà Điện Thánh. Tượng theo tư thế kiết già. Đầu tượng có tóc kết xoắn ốc cao thiên về phía đỉnh. Tai đeo hoa, cổ đeo vòng trang trí hình tròn lớn ở giữa với hình hoa mai và anh lạc. Các nhà nghiên cứu mỹ thuật cho rằng đeo dây anh lạc chỉ có ở tượng niên đại TK 16. Tay phải của tượng đặt trước lòng đùi kê lên bàn chân, tay trái lồng lên tay phải. Ngón cái của hai tay đan xen nhau, đều đeo nhẫn có mặt hoa cúc mãn khai. Tượng khoác áo cà sa chùng rộng, gấp nhiều nếp phủ quanh cổ và lượn tròn trước bụng. Lớp áo ngoài trùm qua bờ vai, phủ lên hai gối xuống mặt bệ sen. Bên trong có lớp xiêm rộng thắt lưng nhiều nếp và bó mối xoắn.
Đại Thế Chí ngự trên bệ vuông, chân trái buông thõng, chân phải xếp bằng. Kích thước tượng: cao 1,22m; ngang vai 0,43m; ngang đùi 0,77m. Đầu đội mũ thiên quan, lượn vành núi cao, trang trí hoa sen. Mặt thanh nhỏ hơn Quan Thế Âm. Cổ đeo vòng. Tay phải cầm phất trần đặt lên đầu gối phải, tay trái để ngửa trước lòng. Tượng khoác cà sa chùng rộng, tương tự A Di Đà và Quan Thế Âm. Quanh thân có vòng tràng hạt điểm hoa tròn, tua ngũ sắc rủ qua hai vai, quấn quanh tay, lượn xuống đùi.
Tượng Từ Đạo Hạnh:
Được bài trí phía trước mặt bệ đá toà sen hình hộp, tượng tạc bằng gỗ vào TK 19, phủ một lớp sơn màu cánh gián nhạt, tư thế thiền định trên bệ gỗ hình tròn. Kích thước: cao 0,95m; ngang vai 0,35m; ngang đùi 0,58m. Đầu đội mũ thất Phật, làm bằng vải thêu kim tuyến. Mặt hơi gầy nhưng rắn rỏi, hai bên miệng có nhiều nếp nhăn, tai dài, lông mày cong, giống tượng chân dung. Ngoài thân tượng phủ kín bằng lớp áo cà sa màu vàng (vải thật). Toàn bộ tượng và bệ gỗ được đặt trên một bệ đá sư tử đội toà sen được chế tác từ thời Lý.
Chùa Thầy có hai pho tượng phỗng khá độc đáo, đặt trước bàn thờ vua Lý Thần Tông. Niên đại của tượng là TK 17, kích thước: cao 1,2m; ngang vai 0,42m. Tượng có thân mình mập khoẻ cởi trần, mặc váy, bụng phệ tròn căng. Hai chân trần chúc mũi chân xuống dưới, gót chống thẳng lên trên. Dải tóc dài quấn quanh đầu.Tai tượng to, có lỗ ở hai bên. Thắt lưng có hai múi lượn dài về phía trước.
Bệ đá sư tử đội toà sen thời Lý:
Đây là bệ hiện đang dùng để đặt tưọng Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Bệ tạo tác từ chất liệu đá màu gan gà, cao 0,83m, chia làm nhiều tầng cấp. Phần đế là một hình bát giác cao 0,5m, với 4 cấp liên tiếp nhau. Trên đế là sư tử đội toà sen. Sư tử trong tư thế phục chầu, miệng rộng, răng xếp hàng đều nhau, trên trán có u tròn nổi. Bộ râu sư tử gồm 3 chòm chải đều. Lưng phủ yếm, chân trước dẫm lên quả cầu. Điểm xuyết trên thân sư tử có những hoa nhiều cánh xoắn.
Bệ đá toà sen hình hộp thời Trần lớn nhất Việt Nam:
So với những bệ đá toà sen hình hộp thời Trần nằm trong rất nhiều ngôi cổ tự ở Bắc Bộ, bệ chùa Thầy có kích thước đồ sộ nhất nước ta, đồng thời là chiếc bệ duy nhất gồm hai tầng bệ. Kích thước bệ: cao 1,36m; dài 3,91m; rộng 2,75m.
Bệ được chế tác từ đá xanh. Tầng bệ trên kết cấu tương tự một bệ đá toà sen hoàn chỉnh ở vùng Bắc Bộ, gồm 3 phần. Trên cùng là đài sen với hai lớp cánh ngửa, một lớp cánh úp. Mỗi cánh sen ngửa thể hiện theo kiểu kép ba, đường gờ giữa xoắn đầu tròn ở phía trên. Dưới hàng cánh sen có một đường diềm hoa dây, tiếp đến là đường gờ hình lá sồi úp.
Thân bệ tạc chim thần và rồng. Chim thần Garuda có mỏ ngắn, mắt tròn trơn, bụng phệ, hai tay đưa lên như đỡ lấy toà sen. Chân của chim hơi khuỳnh hai bên, các móng tay nhọn và như đang nắm lấy viên ngọc. Mặt trước và hai mặt bên của thân bệ chạm rồng không vảy, với cặp sừng chìm trong lớp tóc bờm.
Dưới hàng hình rồng có đường gờ trơn, tiếp theo hàng chân quỳ đè lên một đường gờ trơn khác.
Tầng bệ phía dưới lớn hơn bệ trên, cách thức cũng tương tự một bệ đá toà sen hoàn chỉnh. Diềm trên có một hàng hoa dây, tiếp theo là một hàng sen kép, lớp chim thần, rồng, hoa, lá…
Bệ gỗ thế kỷ XV:
Chùa Thầy còn bảo lưu được bảy nhang án cổ, đặt trong toà Điện Thánh và toà Điện Phật.
Bên phải khám thờ, có giá gỗ dắt bộ kiếm thờ gồm 8 chiếc niên đại TK 17, trong đó có một chiếc chạm rồng và hổ phù, một chiếc chặm hoa văn quy bối và kỳ hà. Hai bên của tượng vua Lý Thần Tông có bộ di vật TK 17, bên trái có tiêu, sáo, hòm sách; bên phải có 4 thanh đao, 1 thanh kiếm, 2 chiếc gậy, 1 chuỳ, 1 phủ việt. Cạnh sập thờ, sau tượng vua Lý Thần Tông có một hòn đá thờ từ TK 17.
Gian phía bên phải toà Điện Thánh có đôi hạc được chế tác vào TK 18. Hạc cao 2,45m, thân thon, cổ cao và cong, mỏ dài. Đôi chân hạc đứng thẳng trên lưng rùa, bờm có những dải lông dài xen những dải lông nhỏ toả đều ở hai cánh, đầu cánh chạm hình rồng. Rùa thân mập, đầu cổ rụt nhưng ngẩng cao, mai chạm hình lục lăng, bốn chân bám chắn trên mặt bệ.
Gian bên trái toà Điện Thánh có 3 con phượng bằng gỗ ở tư thế đứng, niên đại TK 18. Phượng cao 2,3m, đầu ngẩng cao, mỏ quặp, chân thon khoẻ. Mào phượng hình mây cuộn, bờm tỉa thành 4 dải toả lượn xuống sau gáy. Chân phượng có 4 móng to quặp, đứng trên bệ gỗ được tạc lồi lõm như núi.
Góc bên trái phía trong cùng của toà Điện Thánh, ngay sau 3 con phượng có một chiếc sập bằng gỗ, được tạo tác từ TK 17. Sập cao 0,65m; dài 1,7m; rộng 1,25m. Nghệ thuật chạm khắc trên sập chủ yếu là hoa văn như ý.
Chùa Thầy có 7 tấm bia đá, được chạm khắc vào các năm 1653; 1666; 1673; 1683; 1672; 1717. Lâu đời nhất là tấm “Thiên Phúc tự tạo lệ bi” niên đại Thịnh Đức thứ nhất (1653). Bia đặt trong nhà khách, hình khối chữ nhật dẹt, trán tròn. Kích thước bia: cao 1,66m; rộng 0,9m; dày 0,2m. Trán bia khắc “lưỡng long triều nguyệt”, diềm chạm lân chầu. Hai mặt bia khắc hoa văn và minh văn, bài ký “Thiên Phúc tự tạo lệ bi” ghi lại vị trí và lịch sử của chùa.
Chùa còn lưu giữ 26 đạo sắc phong của các triều đình phong kiến, niên đại trải dài từ TK 17 đến TK 20, được cấp vào các năm: Dương Hoà tam niên (1637); Dương Hoà tứ niên (1638); Dương Hoà ngũ niên (1639); Dương Hoà bát niên (1642); Phúc Thái tam niên (1645); Phúc Thái ngũ niên (1647); Phúc Thái thất niên (1649); Khánh Đức tứ niên (1653); Cảnh Trị bát niên (1671); Dương Đức tam niên (1674); Vĩnh Thịnh lục niên (1711); Vĩnh Khánh nhị niên (1730); Cảnh Hưng nguyên niên (1740); Cảnh Hưng nhị thập bát niên (1767); Cảnh Hưng tứ thập tứ niên (1784); Chiêu Thống nguyên niên (1787); Quang Trung nhị niên (1789); Cảnh Thịnh nguyên niên (1793); Gia Long cửu niên (1802); Minh Mệnh nhị niên (1821); Minh Mệnh nhị thập nhất niên (1839); Thiệu Trị tứ niên (1843); Tự Đức tam niên (1852); Tự đức tam thập tam niên (1881); Duy Tân tam niên (1909); Khải Định cửu niên (1925).
Rất nhiều hoành phi câu đối cổ trang trí cho kiến trúc của chùa. Đặc sắc nhất phải kể đến hai chùm câu đối trên hai cổng trụ trước mặt toà tiền đường:
“Thiền môn khai thế giới
Phàm vũ biệt càn khôn”
(Cửa thiền sinh thế giới/Nơi đây khác cõi trần)
“Vạn gia tụng hoạt Phật
Thiên cổ xứng vĩ nhân”
(Vạn nhà ca ngợi Phật/Ngàn xưa xứng vĩ nhân).
Hai bên cầu Nhật Tiên trông ra đền Tam Phủ toạ lạc đôi rồng đá được tạo tác từ thời nhà Trần. Khác với rồng ở Nguyệt Tiên kiều, đầu rồng tại đây có mang dài, miệng ngậm ngọc, đuôi hơi lượn về phía sau, thân thon uốn khúc cong, chân có 3 móng, chân trước vuốt râu. Rồng phía bên traí đã bị mất đuôi, kích thước dài 1,07m, cao 0,44m. Rồng bên phải đã bị cụt đầu, kích thước còn lại dài 0,5m.
Cạnh đền Tam Phủ, phía ngoài có am thờ nhỏ trang trí hổ phủ gắn sứ, bức hoạ này được làm vào đầu TK 20. Trước am toạ lạc hai con chó đá, làm từ thời nhà Nguyễn. Chó được tạc với tư thế ngồi chống chân, mắt dõi về phía trước, cổ đeo vòng nhạc.
Lưng ngai bằng gỗ cổ nhất Việt Nam:
Một trong những di vật quý giá nhất của chùa Thầy, được các nhà khảo cổ học quan tâm nghiên cứu, là lưng ngai thời Trần. Trên phần chuôi mộng cuối cùng của lưng ngai khắc 19 chữ hán, được dịch ra quốc ngữ như sau: “Niên hiệu Thiệu Phong (Trần Dụ Tông) năm Bính Tuât (1346), ngày 25 tháng 10, người coi điện là Đinh Thiện ở làng Trung Thuỵ, xã Đô Minh Cẩm, với nhân duyên của mọi người trong vùng, tạc nên hai pho tượng Thánh Phụ, Thánh Mẫu, đặt an trí dài lâu, cầu được phúc bình, chắp tay xin ghi lại”. Thánh Phụ, Thánh Mẫu ở đây là thân phụ và thân mẫu của Từ Đạo Hạnh ( ngài Từ Vinh và bà Tăng Thị Loan).
Nhà nghiên cứu Tống Trung Tín, trong cuốn sách “Nghệ thuật điêu khắc Việt Nam thời Lý – Trần (TK XI-XIV)”, đã nhắc tới nhiều di vật quý của chùa Thầy: bệ đá mâm bồng thời Lý, bệ đá hoa sen thời Trần, cỗ lưng ngai thời Trần… Theo tác giả: “Lưng ngai chùa Thầy có niên đại chính xác năm 1346. Trong điêu khắc, hình “sừng tê ngọc báu” lồng vào trong hình lá đề mới chỉ gặp ở thời Trần, đó là biểu hiện sự gần gũi giữa thiền và đạo giáo trong Phật Giáo Lý – Trần”.
Rất nhiều tác phẩm của các nhà nghiên cứu khảo cổ, đều cho rằng: lưng ngai bằng gỗ ở chùa Thầy là một trong số hiếm hoi những di vật gỗ thời trần vượt qua được sự huỷ hoại của thời gian đến ngày nay, và đây cũng là cỗ lưng ngai cổ nhất Việt Nam.
Khám thờ Từ Đạo Hạnh:
Khám thờ thiền sư Từ Đạo Hạnh đặt ở góc trong cùng của toà Điện Thánh, trên một đế bệ (cơ đài). Trong Khám có tượng thiền sư Từ Đạo Hạnh vô cùng độc đáo.Tượng có nhiều đốt khớp, với sợi dây xích để khi mở khám ra, tượng sẽ tự đứng dậy “chào” quý khách. Xưa kia, nghệ thuật múa rối nước rất phát triển ở Sài Sơn, nên những nghệ nhân đã chế tạo pho tượng này theo loại hình con rối để tạo ấn tượng linh dị. Nhưng tới thời Nguyễn, người ta cho rằng việc Thánh sư đứng dậy chào ngưòi trần là không hợp lẽ, nên họ đã cắt bỏ dây xích này, vì thế ngày nay pho tượng không còn cử động được nữa.
Khám thờ Thiền sư Đạo Hạnh cao 3m; dài và rộng 1,83m. Khám gồm ba lớp: mái, thân, đế. Mái khám có hai tầng, giống như hình mui luyện. Trụ nhỏ mọc trên đỉnh mái, nâng cao một nụ sen. Mỗi góc mái đều có hai xà nhô ra chạm hình đầu rồng. Bốn cột tròn chạm rồng dựng tại các góc khám. Rồng dài thon cuộn tròn quanh cột theo chiều dài, thân phủ vảy, râu và vây có các dải mây lượn. Giữa các thanh xà nối bốn cột, có những cụm đấu củng hình vuông. Mỗi mặt có 3 cụm đấu, xen giữa là những biến thể hoa văn. Quanh xà có những đường diềm bao kín, chạm hoa dây, sen, mai, cúc. Giả lan can của khám có trụ vuông ở bốn góc, các trụ chính cũng là để mở lối vào khám.
Mặt trước khám lắp bộ cửa gồm 2 cánh, cùng vách ngăn ở hai bên. Cánh cửa hình chữ nhật chia thành 4 ô trang trí. Hai ô trên cùng chạm hình rồng thân thon, lượn vặn vỏ đỗ từ dưới lên trên thành hình lá đề. Hai ô dưới đều chạm con phượng đang trong tư thế nhảy múa. Đuôi phượng mảnh, tỉa nhiều lớp uốn lượn toả ra phía sau, xen kẽ có các cụm mây hình khánh.
Đế khám chia làm 3 tầng, kết cấu tương tự bệ đá hoa sen hình hộp thời Trần. Đế bệ chạm hồi văn được chia thành nhiều ô chữ nhật nhỏ, tỉa hình ca rô và các hình trám lồng. Mặt đế khắc 3 lớp cánh sen. Chân đế kiểu chân quỳ dạ cá, trang trí các cuộn lá đề và mây cuộn. Thân đế có một lớp cánh sen ngửa, mũi sen xoắn lõm.
Khám có niên đại TK 16, trừ một vài bộ phận đã được thay thế vào thời Nguyễn.
Hiếm thấy ngôi chùa nào đã ngót ngàn năm tuổi, vẫn giữ vị trí toạ lạc không thay đổi như Thiên Phúc tự. Dĩ nhiên không thể còn nguyên vẹn kiến trúc thời Lý do thiền sư Từ Đạo Hạnh xây dựng, dấu tích còn lại đến bây giờ là kết quả của những đợt trùng tu lớn (vào TK17, TK18, thời Nguyễn). Dường như tại đây, những người thợ mỗi lần tham gia trung tu đã có ý thức bảo lưu những kết cấu kiến trúc theo kiểu cũ, nhưng mở rộng và nâng cao để chứa đựng được khối di vật luôn được bổ sung trong đó. Số lượng di vật chùa Thầy vô cùng đồ sộ, niên đại trải dài từ thời kỳ khởi dựng cho tới ngày nay. Sẽ không ngoa nếu ví chùa Thầy như một bảo tàng sưu tập hiện vật của nhiều thời đại.
Chu Minh Khôi (Theo Tạp chí Văn Hoá Phật Giáo số ra ngày 1.8.2007)
Nguồn: https://giacngo.vn/PrintView.aspx?Language=vi&ID=77C440