Tổng lược về Thiền Phái Trúc Lâm 16/11/2018

 

Hương Lam

Chúng ta nhìn lại lịch sử Phật Giáo Việt Nam hẳn thấy nổi bật một nét đột phá vô cùng thú vị – Một Thiền phái mang tên Việt Nam, với ông Tổ người Việt Nam, lại là một vị vua anh hùng của dân tộc. Đây là một chấm son trên lịch sử dân tộc nói chung, Phật giáo Việt Nam nói riêng. Ðặt trong tương quan giữa Phật giáo và văn hóa dân tộc, dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử có một vị trí đặc biệt, sự ra đời Thiền phái đã góp phần cổ vũ tinh thần người dân nước Việt về khả năng phát triển những giá trị văn hóa bản địa, nội sinh trong lòng dân tộc. Nhưng đồng thời cũng có thể tu chứng trên cơ sở nền tảng giáo giáo Pháp của Phật.

Dưới ảnh hưởng lớn lao của Trần Thái Tông, ba thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường đã theo thời gian lịch sử dần dần sát nhập làm một. Về sau, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Nhân Tông đã khai mở dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử phát triển, đi vào lòng dân tộc, một dòng thiền không chỉ tiếp thu tinh hoa quá khứ mà còn tổng hợp được những cống hiến của thời đại mình.

Phật giáo Trúc Lâm tự có một nét độc lập của nó, và chính đó là điểm chúng ta cần khai thác và phát huy. Mà nói Phật giáo Trúc Lâm, cũng tức nói đến Thiền phái Trúc Lâm,.vả lại chúng ta là người Việt Nam học Phật, quyết không thể bỏ qua, không hiểu về Phật giáo Việt Nam trong đó Thiền phái Trúc Lâm-Yên Tử, một của báu của dân tộc càng phải hiểu rõ!

  1. SỰ HÌNH THÀNH THIỀN PHÁI TRÚC LÂM

Nhờ sự phát triển của mười thế kỉ trước nên khi đất nước độc lập, Phật giáo Việt Nam càng có điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn. Phật giáo lúc này không chỉ ảnh hưởng to lớn trong đời sống tâm linh, đời sống văn hóa của dân tộc mà còn chi phối đến chính trị, xã hội, v.v…

Lúc này, các vương triều phong kiến cần tìm chỗ dựa vững chắc về ý thức hệ – một công cụ tinh thần để quản lí và xây dựng đất nước – mà Phật giáo lúc này có một thế lực mạnh và có một lực lượng quần chúng đáng kể; nhiều nhà sư am hiểu nhiều ngôn ngữ, thông suốt Tam tạng kinh điển, nhiều Tăng Ni, Phật tử đã tham gia vào việc giải phóng dân tộc, nên việc các vương triều Việt Nam bấy giờ chọn đạo Phật làm quốc giáo cũng là lẽ đương nhiên.

Phật giáo thời này không chỉ bó hẹp trong nhà chùa, lo truyền đạo, chăm sóc đời sống tâm linh cho con người mà còn đóng góp nhiều công sức trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Như các thiền sư đời Lý được trực tiếp tham dự chính sự, tiếp sứ thần ngoại bang (như thiền sư Pháp Thuận và Vạn Hạnh thuộc thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi, thiền sư Ngô Chân Lưu thuộc thiền phái Vô Ngôn Thông, v.v…).

Vào đầu thế kỷ XIII, ba thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường dần dần sát nhập thành một.Thiền sư Thường Chiếu có thể được gọi là người khởi đầu cho sự tổng hợp giữa ba Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường và cũng là gạch nối giữa Phật giáo đời Lý và Phật giáo đời Trần. Phái thiền Trúc Lâm được thành lập vào đời nhà Trần. Điều Ngự Giác Hoàng (Trần Nhân Tông) thành lập phái thiền Trúc Lâm với ý định thống nhất Phật giáo Đại Việt, ngoài ra có thể còn có một số chi phái thiền khác nữa. Phái thiền Trúc Lâm nổi danh với ba vị Tổ đầu tiên là: Trúc Lâm Đầu Đà, Tôn giả Pháp Loa và Tôn giả Huyền Quang, nhưng thực ra, phái thiền TrúcLâm bắt nguồn từ truyền thống ở núi Yên Tử, nên người ta thường gọi là Trúc Lâm-Yên Tử. Phái thiền Trúc Lâm chịu nhiều ảnh hưởng của truyền thống Yên Tử như trên, nhất là chịu ảnh hưởng của Thượng sĩ Tuệ Trung. Thiền sư Hiện Quang khai sơn núi Yên Tử mở đầu cho Phật giáo Trúc Lâm, nền Phật giáo thống nhất đời Trần.

Sự kiện ra đời dòng thiền này có ý nghĩa rất lớn, nó đáp ứng nhu cầu lịch sử của dân tộc là xây dựng một đất nước Đại Việt độc lập tự chủ, không chỉ được xác định trên cương thổ biên giới mà còn độc lập tự chủ trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và ngay cả tôn giáo.

  1. SỰ PHÁT TRIỂN VÀ TAM TỔ TRÚC LÂM

      a/ Sự Phát Triển

Trúc Lâm Yên Tử (竹林安子) là một dòng thiền Việt Nam đời nhà Trần, do Trần Nhân Tông sáng lập. Thiền phái Trúc Lâm có ba Thiền sư kiệt xuất là Nhân Tông (Trúc Lâm Đầu Đà), Pháp Loa và Huyền Quang. Thiền phái này được xem là tiếp nối của dòng Yên Tử, tiếp nối ba dòng thiền trước đó.dòng thiền này trở thành thiền phái chính thức của Đại Việt thời đó nên có liên quan mật thiết đến triều đại nhà Trần, phải chịu một hoàn cảnh mai một sau khi triều đại này suy tàn thì thiền phái cũng suy tàn theo. Vì vậy, sau ba vị Tổ nói trên, hệ thống truyền thừa của phái này không còn rõ ràng, nhưng có lẽ không bị gián đoạn bởi vì đến thời kì Trịnh-Nguyễn phân tranh (16001700), người ta lại thấy xuất hiện những vị Thiền sư của Trúc Lâm Yên Tử như Viên Cảnh Lục HồViên Khoan Đại Thâm và nổi bật nhất là Thiền sư Minh Châu Hương Hải (theo Nguyễn Hiền Đức). Sau một thời gian ẩn dật, dòng thiền này sản sinh ra một vị Thiền sư xuất sắc là Hương Hải, người đã phục hưng tông phong Trúc Lâm. Trong thế kỉ thứ 1718, thiền phái này được hoà nhập vào tông Lâm Tế và vị Thiền sư xuất sắc cuối cùng là Chân Nguyên Huệ Đăng.Vậy xét theo dòng truyền Yên Tử thì Đại Đầu đà Trúc Lâm thuộc thế hệ thứ sáu, nhưng đến ngài, ngài đã thống nhất các phái thiền trước đây, thành một thiền phái Trúc Lâm, do ngài làm Sơ tổ. Từ đây, Việt Nam thực sự đã có một dòng thiền Phật giáo của người Việt, do chính người Việt làm Tổ.

Sau đây là hệ thống truyền thừa trong Đại Nam Thiền Uyển Truyền Đăng Lục (大南禪苑傳燈錄), được Thiền sư Phúc Điền (福田) đính bản:

1. Hiện Quang Tổ sư là vị Tổ đầu tiên ở Trúc Lâm.;2. Viên Chứng Quốc sư;3. Đại Đăng Quốc sư; 4. Tiêu Dao Tổ sư là Tổ thứ tư, Ngài không phải là người Trung Hoa, nhưng trong bài tựa của Thiền sư Huệ Nguyên ghi Ngài là người Trung Hoa, đó là sai;  Huệ Tuệ Tổ sư; 6. Nhân Tông Tổ sư (như vậy Sơ tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông là vị thứ sáu); 7. Pháp Loa Tổ sư; 8. Huyền Quang Tổ sư (ngài Huyền Quang là vị thứ tám trong hệ đó); 9. An Tâm Quốc sư; 10. Phù Vân tức hiệu là Tĩnh Lự Quốc sư;11. Vô Trước Quốc sư;12. Quốc Nhất Quốc sư; 13. Viên Minh Tổ sư.14. Đạo Huệ Tổ sư; 15. Viên Ngộ Tổ sư; 16. Tổng Trì Tổ sư; 17. Khuê Thám Quốc sư; 18. Sơn Đằng Quốc sư; 19. Hương Sơn Đại sư; 20. Trí Dũng Quốc sư; 21. Tuệ Quang Tổ sư; 22. Chân Trú Tổ sư; 23. Vô Phiền Đại sư.

b/ Tam Tổ Trúc Lâm

Trần Nhân Tông (1258-1308) trên tư cách bậc sư tổ với đạo hiệu Trúc Lâm Ðại Ðầu Ðà, người đặt nền móng cho Thiền phái Trúc Lâm. sau khi nhường ngôi thì lên núi Yên Tử, tu tại chùa Hoa Yên từ năm 1299.Theo các nhà nghiên cứu, vua Trần Nhân Tông vốn được sư Huệ Tuệ trao truyền giới pháp. Huệ Tuệ là tổ thứ 5 của sơn môn Yên Tử, một dòng Thiền có tư tưởng bản địa, có ảnh hưởng của dòng Lâm Tế Trung Hoa, có những vị Thiền sư nổi tiếng như vua Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng sĩ. Vua Trần Nhân Tông đã đưa sơn môn Yên Tử thành trung tâm Phật giáo, khai mở một dòng Thiền mới “thuần Việt” và trở thành người lãnh đạo “Giáo hội” đầu tiên của Việt Nam.

Nối tiếp Trần Nhân Tông, đệ nhị tổ Pháp Loa (Ðồng Kiên Cương, 1284-1330) cũng là người am hiểu Thiền học, có tài tổ chức các hoạt động Phật giáo. xuất gia năm 21 tuổi, là người được ngài Trần Nhân Tông chọn để lãnh đạo giáo hội Trúc Lâm Yên Tử từ khi Ngài còn rất trẻ, chỉ mới 24 tuổi (năm1308). Sau khi được giao phó trọng trách đứng đầu giáo hội, Ngài đã có những cải cách về mặt tổ chức đáng kể, với nhiều hoạt động Phật sự sôi nổi. Trong thời gian Ngài lãnh đạo, số lượng Tăng sĩ và Phật tử tại gia, chùa tháp được tăng lên rất nhiều, phong trào tu học được đẩy mạnh và phổ biến trong các thành phần xã hội, đặc biệt là ấn hành được Ðại tạng kinh. Ngoài ra, ngài Pháp Loa còn là một tác gia lớn, người đã viết, biên soạn và biên tập khoảng 10 tác phẩm. Ðáng tiếc là nhiều tác phẩm của Ngài đã thất lạc.

Người cuối cùng trong số ba vị tổ Trúc Lâm là Huyền Quang (Lý Ðạo Tái, 1254-1334), hơn Pháp Loa tròn ba mươi tuổi nhưng lại tu hành muộn hơn,. là một trong những người kế tục ngắn ngủi của ngài Pháp Loa, thường được gọi là đệ tam Tổ của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, tên đời là Lý Ðạo Tái, người tỉnh Bắc Ninh, từng thi đỗ và làm quan. Năm 51 tuổi xuất gia, từng học Thiền với ngài Trần Nhân Tông, và phụ giúp Ngài soạn một số sách, sau khi ngài Trần Nhân Tông mất thì theo ngài Pháp Loa. Nếu ngài Pháp Loa thường được nhắc đến với những tài năng về mặt lãnh đạo và xây dựng giáo hội, thì ngài Huyền Quang được biết đến là một tác gia văn học lớn của Phật giáo và nền văn học của dân tộc đời Trần.

Thơ ông có nhiều bài vịnh cảnh chùa, vịnh hoa và đến bài Phú vịnh chùa Vân Yên (Vịnh Vân Yên tự phú) cho thấy nghệ thuật sử dụng chữ Nôm đã có bước tiến rõ nét, trở nên dung dị, dễ hiểu: Buông niềm trần tục – Náu tới Vân Yên – Chim thụy dõi tiếng ca chim thụy – Gió tiên đưa đòi bước thần tiên. Sư còn soạn nhiều sách giảng giải kinh điển và hướng dẫn việc tu hành.

Với sự hiện diện của ba vị sư tổ Trần Nhân Tông – Pháp Loa – Huyền Quang và khoảng hơn ba mươi năm hưng thịnh, Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã trở thành một biểu tượng giá trị tinh thần người Việt.

III. TƯ TƯỞNG VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG CHÍNH TRỊ LÀM MẤT DẤU THIỀN PHÁI.

a/Tư Tưởng

Tư tưởng chủ đạo của Phật giáo Trúc Lâm là “cư trần lạc đạo”, “tứtâm tức Phật”. Quan niệm này đã có mặt từ thời vua Trần Thái Tông, khi nhà vua bỏ ngai vàng vào núi để tìm Đạo và được Quốc sư Viên Chứng thức tỉnh: “Trong núi vốn không có Phật. Phật chỉ có ở trong tâm. Tâm lặng mà biết thì đó đích thị là Phật”, và ít nhiều Trần Nhân Tông cũng đã kế thừa được từ Tuệ Trung Thượng Sĩ, một con người vĩ đại mà Trần Nhân Tông đã ca ngợi:

Càng nhìn càng cao
Càng khoan càng bền
Thoạt nhìn thấy trước
Bỗng phía sau liền
Đó chính đạo Thiền
Của riêng Thượng sĩ
”.

Tư tưởng của Trúc Lâm là hành đạo giúp đời, đưa đạo đến đời, mọi giáo pháp đều xuất phát từ khuynh hướng “nhập thế”. Do vậy, thực tại cuộc sống là một yếu tố cấu thành giáo pháp, dẫn đến việc hoằng dương Phật pháp trước tiên phải tôn trọng thực tế cuộc sống với đặc điểm dân tộc, làm cho dân tộc trường tồn.Về phương diện lịch sử tư tưởng, Thiền phái Trúc Lâm có tầm quan trọng đặc biệt đến sự phát triển tư tưởng dân tộc Việt. Trên nền tảng tư tưởng của những Thiền phái Phật giáo đã có từ trước như Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường, có tiếp thu các Thiền phái Trung Hoa, đặc biệt là Lâm Tế (với biện pháp hành thiền quyết liệt), Thiền phái Trúc Lâm đã tổng hoà những tư tưởng đó, nâng cao về phương diện bác học, đưa Thiền học vào cuộc sống bằng cách coi trọng yếu tố thực tiễn Việt Nam.

Các tác phẩm cơ sở của Thiền học Trúc Lâm như Khoá Hư Lục, Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục đã diễn tả tư tưởng và giáo pháp đó. Các Thiền sư Trúc Lâm đi thẳng vào thế giới thực chứng bằng cách tháo bỏ mọi hàng rào khái niệm, đó thực sự là biện pháp đốn ngộ mà Vô Ngôn Thông đã nhắc đến, nhưng nhấn mạnh đến yếu tố “tâm”, phá bỏ những ảo tưởng, khuyến thiện bằng cách lấy cá nhân và đời sống thực tại làm trọng. Chính vì vậy, Trúc Lâm thiền phái đã góp phần xây dựng triều đại đương thời, tổ chức xã hội, bồi đắp nhân cách Đại Việt.

Tư tưởng của dòng thiền Trúc Lâm là phát triển đỉnh cao của quan niệm “tức tâm tức Phật“. Trong bài phú Cư trần lạc đạo, ngài Trần Nhân Tông đã viết:       Nhân khuấy bổn nên ta tìm Bụt
Chỉnh mới hay chính Bụt là ta.

Và trước đó, quan niệm này đã được ngài Viên Chứng thức tỉnh vua Trần Thái Tông khi nhà vua bỏ ngai vàng trốn vào núi để tìm đạo: “Trong núi vốn không có Phật. Phật chỉ có ở trong tâm. Tâm lặng mà biết thì đó đích thị là Phật” . Tuệ Trung Thượng sĩ thì nói: ” Khi mê không biết ta là Phật, khi ngộ thì ra Phật là ta” hay “Thân ta tức là thân Phật, không có hai tướng” …Chính quan niệm đó đã đánh thức sức sống mãnh liệt bên trong con người thời bấy giờ và làm nên lẽ sống cao quý của thời đại, để lại nhiều kinh nghiệm hết sức xương máu trong công cuộc chống ngoại xâm và xây dựng đất nước. Cùng với học thuyết vô niệm làm nên tư tưởng chung của thiền phái.

Nền tảng chung là thế, nhưng chúng ta dễ dàng nhận ra những đặc điểm của phương pháp tu hành ở dòng Thiền này, nó không thuần túy pháp môn Thiền định mà bao gồm cả yếu tố Tịnh độ. Theo ngài Trúc Lâm Ðầu Ðà thì những pháp môn Tịnh độ cũng chính là Thiền. Ðây có thể nói là đặc điểm của Thiền tông Việt Nam. Trong Cư trần lạc đạo phú, Ngài viết:

Miễn được lòng rồi,
Chẳng còn phép khác.
Gìn tính sáng, tính mới hầu an,
Nén niềm vọng, niềm dừng chẳng thác (…)
Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn hỏi đến Tây phương,
Di Ðà là tính soi sáng, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc…

b/ Những Ảnh Hưởng Chính Trị Làm Mất Dấu Thiền Phái Sau Tam Tổ Huyền Quang

Do Thiền học Việt Nam gắn chặt với triều đình nhà Trần nên một khi triều đại này sụp đổ thì hệ phái này cũng phải tiềm ẩn sự suy tàn . Lý do thứ hai là sự suy đồi trong giới Tăng sĩ vào cuối đời Trần khiến cho các Nho thần như Trương Hán Siêu, Lê Quát, Phạm Sư Mạnh có cớ đả kích đạo Phật, đề cao Nho giáo.

Lại thêm, khi nhà Minh sang xâm lăng nước ta, do nhận thức được Giáo hội Trúc Lâm có những nét độc đáo về phương diện tư tưởng, tổ chức cũng như hành đạo khiến cho nó chỉ có thể là một Giáo hội Việt Nam, phục vụ cho người Việt, duy trì bồi đắp cá tính Việt. Vì thế họ đã quyết tâm đập cho tan nát những cơ cấu văn hóa xây dựng trong suốt gần 150 năm của Phật giáo đời Trần.

Tất cả những điều kể trên đây đã khiến các bậc Tăng sĩ có tài đức phải ẩn cư nơi núi rừng hoặc thôn dã khiến cho Thiền học Việt Nam chìm lặng một thời gian dài.

Giải thích lý do vì sao ngài Huyền Quang khiến cho dòng Trúc Lâm đến đây xem như chấm dứt. Nhiều người thắc mắc tại sao hệ phái Trúc Lâm sau đời ngài Huyền Quang không còn thấy tăm hơi gì nữa. Bởi vì những lý do sau làm phái thiền Trúc Lâm mất dạng sớm.

Lý do thứ nhất là Thiền sư Huyền Quang được ngài Pháp Loa trao tâm kệ và y bát để nhận trách nhiệm làm Tổ thứ ba của hệ phái Trúc Lâm, lúc Ngài đã bảy mươi bảy tuổi. Một con người đến tuổi đó là đã mệt mỏi rồi, không còn sức khỏe để làm việc nữa. Mà Ngài là thi sĩ, là nghệ sĩ, nên tâm hồn thích được tự do phóng khoáng, không thích bị ràng buộc, thì làm sao gánh vác được việc tổ chức lớn lao của hệ phái Trúc Lâm???

Lý do thứ hai là vì thời đó vua Trần Nhân Tông đi tu nên ở thế gian người ta rất quí người tu, không ai dám chạm đến chư Tăng. Có những người tu không phải là hảo tâm xuất gia, không phải quyết chí cầu thành Phật, mà tu để lánh nạn đói thiếu nên ở trong chùa trở thành lôi thôi và suy sụp, đó cũng là duyên cớ để những nhà nho chỉ trích.

Lý do thứ ba là thời ấy đang có sự tranh chấp ý thức hệ giữa Phật và Nho. Các nhà nho đã giữ những chức vụ quan trọng trong triều đình. Phật giáo lúc đó lại đang xuống thấp, các nhà nho phải chỉ trích, vạch cho nhà vua và triều đình thấy những lỗi lầm, những điều xấu tệ của người theo Phật để không còn tin Phật nữa, đó là lý do khiến Phật giáo càng xuống mạnh hơn.

Lý do thứ tư, giáo hội thời đó là giáo hội của triều đình. Vua làm Tổ lãnh đạo, dưới vua là ngài Pháp Loa, được triều đình cúng ruộng đất; công chúa và các hoàng thân đi tu theo Ngài. Như vậy giáo hội xuất phát từ trong triều đình. Nhưng qua các đời Trần Anh Tông, Trần Minh Tông… đến đời Trần Nghệ Tông trở về sau, triều đình suy yếu dần, nhà vua mất quyền, khi chuyển qua nhà Hồ thì Phật giáo hết chỗ tựa. Nhà Hồ, quân Minh, va cả nhà Lê không thích những người thân với nhà Trần, nên những vị tăng được ủy quyền để lo cho giáo hội Trúc Lâm thời đó phải ẩn trong rừng núi hoặc đổi tên họ chớ không dám lộ mặt. nên không nối tiếp hệ Trúc Lâm. Thế là vì ảnh hưởng chính trị nên chư Tăng thời đó tuy vẫn còn nhưng không ai dám tự xưng là kế thừa hệ Trúc Lâm, thành ra hệ Trúc Lâm xem như mất.

Lại thêm một điều nữa là sau này vào đời Lê, người viết sử là các nhà nho vốn không có cảm tình với Phật giáo, nên những việc hay của đạo Phật nhưng không liên hệ tới triều đình, các nhà viết sử không ghi. Vì thế từ cuối đời Trần đến đời Hồ, thời Minh thuộc, đời Lê tuy cũng có nhiều việc rất hay trong Phật pháp nhưng không được ghi lại nên thời gian đó xem như không có sự liên hệ trước sau. Thế nên sử sách thời Lê đối với Phật giáo rất là thiếu, chúng ta thấy như hệ Trúc Lâm Yên Tử ngang đó là dứt, nhưng thật ra không phải. Như vậy sau ngài Huyền Quang tức là đời thứ tám, còn mười lăm đời nữa chớ không phải là dứt, nhưng sở dĩ chúng ta không thấy ghi là vì lúc đó các Ngài ẩn hết, không xuất đầu lộ diện và không nói rõ là truyền thừa hệ nào.

      Còn ở Đàng Trong phái thiền Trúc Lâm bị coi chống chúa Nguyễn nên các Thiền Sư của Thiền phái này phải ẩn trốn hay cầu pháp sang phái Thiền Lâm Tế. vì vậy, phái Thiền Trúc Lâm lại mất dấu một lần nữa ở Đàng Trong. Tuy nhiên, ở Đàng Trong phái Thiền Trúc Lâm chỉ mất dấu trên danh nghĩa, trong thực tế pháp môn tu thiền của Thiền phái vẫn được duy trì trong số các Thiền Sư phái thiền Lâm Tế ở Đàng Trong từ thời chúa Nguyễn cho đến thời các vua nhà Nguyễn……và sự xuất hiện của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương….[1]

  1. SỰ PHỤC HƯNG CỦA THIỀN PHÁI.

Sau gần một thế kỷ loạn lạc, đầy dẫy bạo động, đức tin của các nhà chính trị nơi triết học Tống Nho đã lung lay. Nhiều sĩ phu đại diện cho Triết học Tống Nho trong suốt thời gian đó đã chứng tỏ hư hỏng và bất lực. Trong đau khổ cùng cực, người ta bắt đầu quay về với đạo Phật, một đạo lấy đức từ bi là gốc và kỹ thuật trị thế là chủ yếu. Các Chúa Trịnh cũng như các Chúa Nguyễn, không phải là những người học Phật thâm uyên và có ý chí tu học như các vua Trần, nhưng đã quy hướng về đạo Phật, lấy đó làm nơi nương tựa tinh thần. Họ chỉ là những tín đồ Phật Giáo, lấy sự ủng hộ Phật Giáo để tạo dựng công đức cho dòng họ chứ không biết áp dụng Phật Giáo vào việc dựng nước. Tuy vậy, đó cũng là một trong những nguyên nhân đưa tới sự phục hưng.

Với sự nứt rạn dần dần của niềm tin nơi triết học Tống Nho, nhiều nhà trí thức, sau khi nếm đủ khí vị vô thường và đen bạc của thời đại, cũng đã bắt đầu xoay sang nghiên cứu Phật học. Ðã thấy một số nho sĩ trí thức bỏ Nho theo Phật. Thiền phái Lâm Tế lại được truyền vào nước ta một lần nữa.

Thiền phái Trúc Lâm nổi bật nhất ở thời Trần với ba vị Tổ đầu, sau đó do nhiều yếu tố trong đó có hoàn cảnh chính trị, xã hội khiến những vị tu hành này phải tiềm ẩn hoặc rút về núi rừng yên tu, hoặc tư liệu bị thất thoát, nên trong lịch sử dường như lu mờ một khoảng. Tuy vậy, sức sống thiền là ở nội tâm, không phải ở hình thức bên ngoài, do đó hình thức không thể dập tắt được, trừ khi nơi nội tâm người tu đã tắt. Trái lại, dù ở nơi xa vắng ít ai biết tới, nhưng nội tâm vẫn có sức sống sáng ngời, thì mạch nguồn thiền vẫn còn trôi chảy, đủ duyên thì nó sẽ bừng dậy. Và thực tế đã chứng minh điều đó. Sau thời gian dường như tiềm ẩn, đến thời Hậu Lê, Thiền sư Chân Nguyên lại xuất hiện chấn hưng.

Vào Thế kỷ XVII tại miền Bắc nước ta, dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử phát triển mạnh mẽ, người đứng đầu là Ý đồ phát triển nền Phật giáo thời Trần Nhân Tông là một trong những nỗ lực nhằm tìm một giải pháp cho những bế tắc của thời đại, khi mà các thế lực phong kiến cấu xé nhau để giành giựt quyền bính mà không đếm xỉa gì đến quyền lợi của dân tộc và xã hội đang trên đà băng hoại. Ngài ngài Chân Nguyên (1647-1726).đã viết nhiều tác phẩm về Phật giáo với nhận thức khá mới mẻ. Tuy nhiên, những cố gắng đó vẫn không xoay chuyển được tình thế, nhưng dẫu sao cũng đã tạo nên một sự phấn khích cho thế hệ đương thời và sau đó, mà một trong những người kế thừa xuất sắc là Ngô Thì Nhậm (1746-1802), tức Hải Lượng Thiền sư, tự xưng là Tổ thứ tư (17) của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, người đã viết tác phẩm nổi tiếng Trúc lâm tông chỉ nguyên thanh. Ngài Chân Nguyên một trong những ngọn đuốc sáng của Phật Giáo Ðàng Ngoài Ngài cùng các đệ tử củaNgài đã làm phục hưng phái Trúc Lâm, cứu vãn được một số quan trọng những tác phẩm của các thiền tổ Trúc Lâm bằng cách sưu tầm, hiệu đính, khắc bản và lưu hành những tác phẩm này.

Trong lúc Chân Nguyên thiền sư đang chủ trì đạo tràng ở Long Ðộng và Quỳnh Lâm thì tại lưu vực sông Xích Ðằng tỉnh Hưng Yên, thiền sư Hương Hải cũng đang chủ trì một đạo tràng lớn: đó là đạo tràng của chùa Nguyệt Ðường. Thiền sư Hương Hải vốn xuất gia tu học ở Ðàng Trong, nhưng vì có sự hiểu lầm hớn giữa ông và chúa Nguyễn Phúc Tần nên ông đã lấy thuyền đi ra Ðàng Ngoài để hành đạo.

Về ngài Minh Châu-Hương Hải (1628-1715), theo Toàn tập Minh Châu-Hương Hải (18), Ngài xuất thân từ một gia đình truyền thống danh gia thế phiệt, gốc Nghi Lộc, Nghệ An, nhưng sinh ra và lớn lên tại miền Nam. Do một số bất đồng với chúa Nguyễn Phúc Tần (1649-1687), Ngài bỏ ra Bắc năm 1682. Cuộc đời hành đạo của ngài Minh Châu-Hương Hải đã có những ảnh hưởng lớn đối với tình hình Phật giáo đương thời bằng cách tác động vào chính sách triều đình, tiếp nối truyền thống gắn bó giữa Phật giáo và dân tộc vốn có trong truyền thống của Phật giáo nước ta. Thiền sư Minh Châu-Hương Hải có công đức lớn trong việc phát triển thiền phái Trúc Lâm đã bị mai một sau khi nhà Trần mất ngôi (năm 1400) phái thiền Trúc Lâm được thịnh đạt trở lại và còn phát triển ở Đàng Ngoài cho đếng đời nhà Nguyễn.Ngài là một tác gia lớn, người đã đào tạo nhiều học trò xuất sắc, là một ngôi sao sáng trên bầu trời Phật giáo thế kỷ XVII- đầu XVIII.

Ðến ngày nay, danh phái Trúc Lâm đã được đặt thành tên cho nhiều ngôi chùa, thiền viện khắp trong nam ngoài bắc và mở rộng sang cả các nước Pháp, Mỹ, Canada, Australia, Ý…Bước sang thế kỷ 21, Thiền phái Trúc Lâm thêm một lần phục hưng, nguồn sáng văn hóa Trúc Lâm Yên Tử càng thêm tỏa rạng trên bản đồ Việt Nam và thế giới

Phật giáo đời Trần để lại cho chúng ta vô số những bài học quí giá. Trong đó bài học về sự thịnh suy và sự thống nhất trong tinh thần hòa hợp như sữa với nước của Phật giáo. Chúng ta thấy những lúc Phật giáo cực thịnh không phải là lúc lắm chùa, nhiều sư, có được sự hưng thịnh của Phật giáo là nhờ vào trí tuệ Phật chất  tỏa ra từ mỗi người con Phật. Phật chất ấy là hoa trái của những ngày tháng công phu tu tập. Chính cái đó mới có thể luân lưu trong dòng đời bất tận mà tỏa sáng muôn ngàn thế hệ hôm nay và mai sau.Tuy rằng trong mỗi đời vua Trần, số người tu chứng không phải là nhiều, chỉ một hai người, nhưng cũng đủ làm rạng sáng tông phong nhà Phật, cũng như cũng đủ làm chỗ qui ngưỡng, nương tựa vào Tăng Ni, tín đồ Phật giáo. Ở đây với tinh thần ấy hòa hiệp thống nhất thực tu thực chứng các vị tổ Trúc Lâm đã khai quang được đạo Phật ở Việt Nam , để Phật pháp vẫn được xương minh  và truyền bá rộng khắp mọi nơi, mọi lúc trong nước Đại Việt.

Ðiều quan trọng hơn, sự ra đời Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã góp phần cổ vũ tinh thần người dân nước Việt về khả năng phát triển những giá trị văn hóa bản địa, nội sinh trong lòng dân tộc. Ðây cũng chính là sự đáp ứng nhu cầu đời sống tâm linh, tín ngưỡng của mỗi cộng đồng người ở từng thời đại, giai đoạn lịch sử cụ thể. Có thể nói sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã tạo nên trường lực hấp dẫn mạnh mẽ, tạo đà thúc đẩy sự ra đời hàng trăm ngôi chùa lớn, nhiều tầng lớp Tăng chúng cùng quy hướng theo một dòng tu hành in đậm sắc thái Phật giáo dân tộc. Bản thân hình tượng ba vị sư tổ cũng được tôn thờ, nghệ thuật hóa thành tranh, tượng và nhân vật trong văn học viết cũng như truyền thuyết dân gian. Nguyễn Lang, trong Việt Nam Phật Giáo Sử Luận đã viết: “Phật Giáo Trúc Lâm là một nền Phật Giáo độc lập, uy tín tinh thần của nó là uy tín tinh thần quốc gia Đại Việt. Nó là xương sống của một nền văn hóa Việt Nam độc lập. Nền Phật giáo này tuy có tiếp nhận những ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa, Ấn Độ và Tây Tạng nhưng vẫn giữ cá tính đặc biệt của mình.”[2] Mặc dù đến hết triều Trần, Phật giáo không còn giữ được địa vị như giai đoạn trước, song tinh thần Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã kịp chuyển hóa, thấm sâu trong đời sống tinh thần dân chúng và trở thành những giá trị văn hóa bền vững trước thời gian.

Nếu văn hóa là những gì còn lại trước thời gian thì chính các giá trị vật thể và phi vật thể liên quan Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã là một minh chứng sâu sắc cho khả năng tồn tại và phát triển của một di sản văn hóa, bất chấp năm tháng và mọi thăng trầm thế sự. Thiền phái Trúc Lâm tỏa sáng thành “tâm thức Trúc Lâm” trong lòng mỗi con người thuộc mọi thế hệ, ở khắp mọi vùng đất nước.

Nguồn: https://nghiencuulichsu.com/2018/11/02/tong-luoc-ve-thien-phai-truc-lam/

Tag :

X

Live chat fanpage

Bạn cần tư vấn ?