Trong cộng đồng các dân tộc trên thế giới, họ đã biết dùng “ngôn ngữ giao tiếp” khác nhau để hòa nhập và cùng tồn tại. Bên cạnh ngôn ngữ cơ thể và chữ viết có hệ mã riêng thì ngôn ngữ “âm nhạc” mang một giá trị tinh thần, giá trị tâm linh tinh túy. Đối với dân tộc Việt Nam, âm nhạc truyền thống mềm mại nhưng linh hoạt, dữ dội nhưng êm đềm, tâm tình nhưng đầy khát vọng và giá trị cội nguồn cao cả.
Gắn liền với dòng chảy lịch sử nước Việt, có một dụng cụ âm nhạc đã góp phần làm nên ý nghĩa nhân văn, ý nghĩa quốc tộc của người Việt, đó chính là Đàn Bầu, một tên gọi rất thuần Việt. Theo địa lý tự nhiên, nước Việt Nam mang dáng hình chữ S mềm mại. Còn theo ngôn ngữ thi thơ nước Việt có hình dáng thon thả như “giọt Đàn Bầu”, một cách ví von hoán dụ trong bài thơ nối tiếng của nhà thơ Phạm Minh Tuấn:
“Đât nước tôi thon thả giọt Đàn Bầu”
“Thanh âm Đàn Bầu” đó giống như hành trình bôn ba của đất nước, có những bằng phẳng, hiểm trở, hoang sơ của rừng vàng biển bạc đất phù sa; có những thăng trầm vinh quang hoan hỉ của bề dày lịch sử dựng nước giữ nước của cha ông. Chẳng thế mà, tiếng Đàn Bầu Việt Nam lại diết da, thánh thót đến vậy, mọi cung bậc âm thanh như biểu đạt dáng hình đất nước, tâm hồn dân tộc và truyền thống lịch sử. Và đương nhiên, nhắc đến Việt Nam là nói đến “quê hương Đàn Bầu”, xứ sở của những âm điệu “độc nhất vô nhị”, biến thiên từ cây đàn Bầu “một dây thánh thót”.
ĐÔI ĐIỀU VỀ LỊCH SỬ CÂY ĐÀN BẦU VIỆT NAM
“Đàn Bầu” Việt Nam xuất hiện, phát triển, biến hóa gắn liền với giai thoại tiên cổ, lưu truyền trong nhân gian nhưng luôn được trân trọng nâng niu trong tầm thức người Việt, với những gì nhân đạo và độc đáo của trường phái “âm nhạc quê hương”. Có nhiều giả thuyết khác nhau về sự xuất hiện của cây Đàn Bầu. Nhưng trong kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam, có một vài ý kiến tổng hợp cho sự ra đời của Đàn Bầu dựa theo văn học truyền miệng và tài liệu sử học.
Đầu tiên là xuất xứ huyền thoại của Đàn Bầu trong truyền thuyết về tình cảm gia đình giữa chồng và vợ, giữa mẹ chồng và nàng dâu, cao cả hơn là tình mẫu tử thiêng liêng. Cây Đàn Bầu trong câu chuyện dân gian là món quà của một bà Tiên ban cho nàng dâu hiếu thảo. Vì chiến tranh mà người con trai phải ra trận, do loạn lạc họ đã cách xa nhau, để tận hiếu với mẹ già và tận tình nghĩa phu thê mà nàng dâu đã chịu móc mắt mình để tế hung thần. Câu chuyện sâu lắng như hóa hồn vào tiếng Đàn Bầu ấy, tạo nên những thanh âm nỉ non, tự tình, có đau sót, có bi ai nhưng lại ẩn chứa một sức mạnh tinh thần và niềm tin hoàn viên mãnh liệt.
Bên cạnh đó, một giai thoại khác cũng được nhắc đến, đó là cuộc đời hát Xẩm của thái tử Trần Quốc Đĩnh. Theo nghệ nhân Nguyễn Văn Nguyên kể lại trong bài viết của nhà nghiên cứu Hoàng Kiều thì Đàn Bầu chính là báu vật mà Bụt ban cho thái tử Trần Quốc Đĩnh làm kế sinh nhai, làm nhạc cụ định an tinh thần trong hoàn cảnh bơ vơ, gia biến. Hai câu chuyện, hai cốt chuyện nhưng cùng một kết thúc, dường như cha ông ta đã dành nhiều ưu ái cho thi sử của cây Đàn Bầu. Có hình ảnh bà Tiên hiền hậu, có hình ảnh ông Bụt nhân từ, có những con người sống cơ cực nhưng được viên mãn hậu vận, đã làm cho cây Đàn Bầu mang thanh âm da diết, mủi lòng, nhưng cũng đầy niềm tin và khát khao hạnh phúc. Điều đó cho thấy, một nhạc khí giản đơn như Đàn Bầu được lưu truyền rộng rãi trong nhân gian chính là thể hiện sự yêu thích, sự trân trọng lớn, biểu đạt tâm ý nỗi niềm và “bản sắc” âm nhạc dân tộc Việt.
Tìm hiểu trong thư tịch và hiện vật khảo cổ học cũng như lịch sử chữ viết có một số những sách sử quan trọng có đề cập đến Đàn Bầu. Theo An Nam chí lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Chỉ Nam Ngọc âm giải nghĩa, Đại Nam thực lục tiền biên, Tân Đường thư, Cựu Đường Thư…cây Đàn Bầu ra đời xuất phát điểm ở vùng đồng bằng Bắc Bộ sau đó được người Kinh Việt Nam mang sang Quảng Tây Trung Quốc. Cây Đàn Bầu được lấy cảm hứng từ một trò chơi dân gian “trống đất” của trẻ nhỏ. Cha ông ta đã có sự quan sát tinh tế, cảm thụ thanh âm nhanh nhạy, nên những tiếng kêu “bung bung” từ dây căng kéo trong hố đất đã kết tạo ý tưởng hình thành cây đàn làm từ ống tre và quả bầu khô chỉ với một dây duy nhất. Số phận cây đàn Bầu Việt Nam cũng bấp bênh như chính cuộc đời cơ cực của người nông dân xưa. Hình ảnh người nghệ nhân mù lòa, cùng chiếc Đàn Bầu hành khất khắp nơi, mang tiếng đàn của mình nuôi sống bản thân. Lời ca tiếng nhạc thánh thót nhưng ai oán, ẩn chứa sâu thẳm là mong ước đơn sơ nhưng khó nhọc về cuộc sống đủ ăn đủ mặc và thanh tịnh.
“Một dây nũng nịu đủ lời
Nửa bầu chứa cả đất trời âm thanh” (Văn Tiến Lê)
Đàn Bầu trong chế độ xưa là nhạc khí dân gian của kẻ bần hàn, tồn tại chìm nổi cùng bá tánh, giai cấp thống trị có con mắt “nửa vời” với loại nhạc cụ được cho là “hẩm hiu” này. Thời nhà Lý, chỉ dùng Đàn Bầu để đệm cho người hát xẩm, làm thanh bồi cho các khúc ca dân giã của nam thanh nữ tú đang tuổi tâm tình, của người già khắc khổ chuyến đi cuộc đời gian nan, của trẻ em hồn nhiên nhưng tuổi thơ bươn chải. Từ truyền thuyết xa xưa của dân tộc đến những dấu tích lịch sử ghi lại đều chỉ là giả định, câu chuyện bắt đầu của cây Đàn Bầu Việt Nam là ẩn số mở, nhưng thực tế đã chứng minh nó gắn bó với xóm làng, con người Việt bao đời nay. Cuộc sống sinh hoạt của người nông dân xưa, có sự tồn tại của gốc Đa đầu làng, giếng nước – sân đình, những bụi tre già, ruộng lúa và giàn bầu tươi tốt. Câu chuyện “tương thân tương ái” với câu ca dao:
“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”,
đã bồi đắp cho cây Đàn Bầu có phần cấu tạo từ bầu quả ra đời, như một sự kết tinh của truyền thống dân tộc, nhân cách dân tộc và tình cố kết cộng đồng sâu sắc. Vì thế tiếng Đàn Bầu cất lên chính là tiếng lòng, vừa mang nghĩa nhân văn vừa mang nỗi khổ “sinh – lão – bệnh – tử” thời cuộc phong kiến nhiều thị phi. Theo Ông Đỗ Văn Thước, một nghệ nhân Đàn Bầu từng chia sẻ: Người nông dân xưa dùng dây rừng buộc quanh gốc tre để bảo vệ bụi tre tránh gió bão, họ nghe thấy âm thanh phát ra từ đó mang lại cảm giác kỳ lạ mà lưu luyến tình cảm, họ nghĩ đến việc hạ tre thành cọc căng dây tơ để âm thanh hay hơn, rồi sử dụng vỏ quả bầu dài làm hộp cộng hưởng. Lịch sử ra đời và rong ruổi của cây Đàn Bầu truân chuyên theo năm tháng, mặc dù từ thời Lý đã phổ biến trong tầng lớp chúng dân nhưng đến năm 1892 Đàn Bầu mới được những người hát xẩm phía Bắc đưa vào xứ Huế để ca khúc đệm đàn cho một số bộ phận vương quan tiến bộ yêu thích thanh âm trong trẻo, nỉ non đó. Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, Vua Thành Thái – một trong ba vị vua yêu nước thời Pháp thuộc, ông yêu tiếng đàn Bầu như hơi thở quê hương xứ An Nam, lúc đó Đàn Bầu mới được thay thế đàn tam trong ngũ tuyệt tranh-tỳ-nhị-nguyệt và bầu. Và nấc thang mới sáng sủa của Đàn Bầu đã có đề tựa, nhạc cụ này được có mặt trong dàn nhạc dùng để hòa tấu, nhưng chỉ một số nhạc sĩ tài tử đam mê sử dụng chứ không phải đại đa phần giới “cầm ca”.
ĐÔI ĐIỀU VỀ NHỮNG NHẠC KHÍ TƯƠNG TỰ
“Độc huyền cầm” giải thích theo tiếng Việt nghĩa là “đàn một dây”. “Đàn Bầu” của Việt Nam cũng là một trong những loại đàn một dây có lịch sử tồn tại mang bản sắc riêng vô cùng “độc đáo” của dân tộc Việt. Nhưng trên thế giới, đàn một dây với những tên gọi khác nhau của riêng ngôn ngữ từng quốc gia và mặc dù chung một điểm duy nhất “chỉ có một dây thanh” thì chúng vẫn có sự khác biệt rõ rệt.
Một số nước Châu Á như Nhật Bản, Trung Quốc, Campuchia, Ấn Độ; các nước Châu Phi, nước Hy Lạp cổ đại cũng tồn tại đàn một dây. Theo GS Trần Văn Khê, tìm hiểu kho tàng nhạc cụ truyền thống các nước ở các Châu lục cũng chính là học hỏi cũng như khẳng định được chuẩn xác nhất những giá trị văn hóa âm nhạc thuộc về tinh hoa dân tộc. Ví dụ như cây đàn Bầu Việt Nam, so sánh với những cây đàn một dây của các nước bạn bè quốc tế, có nhiều ưu điểm vượt trội và “thuần túy Việt Nam”.
Ở Trung Quốc có đàn một dây tên gọi Nhất huyền cầm hay Độc huyền cầm. Đàn có dây tơ, độ cao của âm tùy sợi dây ngắn hay dài. Tay trái chặn dây tại nhiều chỗ để điều chỉnh thanh âm trầm hoặc bổng và gảy dây bằng các ngón tay mặt.
Ở Nhật Bản, đàn một dây được gọi là Ichigenkin. Đàn cũng có một dây tơ, khi đánh đàn sử dụng móng đeo ở các ngón tay mặt. Người nghệ sĩ dùng tay trái cẩm miếng ngà để chặn dây và vuốt trên dây tạo tạo âm cao thấp.
Ở Campuchia, Sadev chính là tên gọi của đàn một dây. Đàn này không dùng bồi âm, dây đàn được căng trên cần đàn nối liền giữa hai trục. Cần đàn có một bầu gắn vào một đầu của đàn, bầu áp vào người. Gảy đàn bằng ngón tay áp út của tay mặt, tay trái nhấn trên dây ở nhiều điểm khác nhau.
Ở Ấn Độ có đàn Gopi Yantra, cũng là đàn một dây, một bên là đầu tre một bên là miếng da và hai thanh tre cặp hai bên còn một dây căng ở giữa. Độ cao thấp của âm thanh phụ thuộc vào độ căng của mặt da. Da mặt càng thẳng thì âm vực càng cao. Gopi Yantra được sử dụng khá nhiều trong những khúc ca của người hát rong ở Ấn, và âm điệu phụ họa của chúng khá rộng rãi ở đất nước này.
Đơn giản hơn về cấu tạo so với một số nước trên là đàn một dây ở Châu Phi. Loại đàn này có nhiều cung kéo. Còn ở nước Hy Lạp cổ đàn một dây được dùng để làm tiêu chuẩn định thang âm chứ không dùng để đàn.
Hội quán nhận thấy vai trò và giá trị nổi bật của cây đàn độc đáo này, với mong muốn đưa “Độc huyền cầm” đến với đời sống gần gũi hơn thông qua những dự án thiết thực như gặp gỡ giao lưu công chúng với nghệ sĩ đồng thời phát huy khả năng sáng tạo thổi vào đó vai trò của mỹ thuật ứng dụng để cây đàn Độc đáo này được phát quang rộng hơn.
Làm việc với nghệ sĩ ND Hoàng Anh Tú mới thấy khả năng phát triển của đàn Bầu rất lớn, bởi cao độ ở quãng tám do đó khi đứng độc lập vẫn có thể trở thành 1 nhạc cụ chính, tiêu biểu đủ để phối với các làn điệu truyền thống, thậm trí đàn Bầu đã từng tham gia cùng với dàn nhạc thính phòng, có thể phối các bản nhạc đương đại với tiết tấu nhanh và đảm bảo âm độ tốt. Điều thú vị của cây đàn ở tính tạo hình có thể rất mộc mạc (từ cây tre, quả bẩu) những cũng có thể trở nên tinh tế khi đưa hình thể của các linh vật, họa tiết hoa lá… Sự sáng tạo đó vô tình đưa cây đàn trở nên hấp dẫn và có hơi thở của đời sống đương đại – Đàn Bầu nhiều năm nay được nghiên cứu khai thác trở thành cây đàn điện tử.
ĐỘC ĐÁO ĐÀN BẦU VIỆT NAM
Cha ông đã tạo ra “cây Đàn Bầu” mang âm hưởng quê hương, như những lũy tre làng bao bọc thôn quê Việt, tiếng Đàn Bầu từ dân gian ấy như tiếng của tổ tiên ngàn xưa vọng về, tiếng Đàn Bầu ấp ủ dáng hình thân thương của đất nước trải dài từ Bắc vào Nam. Tại xứ sở cách Việt Nam gần nửa vòng địa cầu, cây Đàn Bầu có tuổi đời dài nhất đang nằm trong bộ sưu tập Stearns ở đại học Michigan (Mỹ), đã 112 năm tuổi. Những người con xa xứ, nghe bài hát “Quê hương là chùm khế ngọt” có âm hưởng đệm tiếng Đàn Bầu đều có dư vị mặn mùi, nhớ quê nhà da diết. Tiếng Đàn Bầu tấu lên có âm thanh ngọt ngào, thanh trong, đượm chất tự tình. Cũng mang tâm trạng đó, GS – TS Nguyễn Thuyết Phong, Việt Kiều làm việc tại Viện âm nhạc Việt Nam tại Mỹ từng chia sẻ: “Âm điệu Đàn Bầu Việt Nam là tiếng nói thâm trầm của con người Việt Nam, nhẹ mà sâu. Nó chuyên chở hồn dân tộc qua nhiều thăng trầm lịch sử, chia sẻ mọi đắng cay trong cuộc sống với niềm tin vươn lên. Con người Việt rất gắn bó với âm nhạc, lạc quan trong nghiên cứu và sáng tạo văn hóa âm nhạc”. Đàn Bầu Việt Nam chính là nổi bật chỉ ở sự khác biệt đơn sơ, mộc mạc ấy nhưng lại làm nên sự “độc tôn” mang tinh túy của dân tộc Việt qua từng hành trình lịch sử.
Tất cả các nhạc khí trên đều dùng thực âm, riêng Ðàn Bầu Việt Nam chuyên dùng bồi âm. Trong đó hai yếu tố vật lý được áp dụng để tạo cách đàn đặc biệt là khảy dây đàn trên nút giao động để tạo ra bồi âm, thay đổi độ cao của bồi âm do độ căng sợi dây quyết định. Do đó Đàn Bầu Việt Nam tạo ra nhiều âm sắc, âm thật, âm bồi hơn hẳn….Những “âm bồi” tuyệt đẹp ấy, kết hợp với kỹ thuật diễn tấu của người nghệ sĩ, sẽ tạo nên khúc ca nổi bật, khơi dậy cảm xúc, dậy sóng tâm tư. Nếu như cao độ của những nốt nhạc phát ra từ đàn Phương Tây như piano hay organ luôn xác định, thì âm thanh Đàn Bầu lại đọng lại giữa những khoảng cao độ đó. Đây chính là nét đặc biệt của Đàn Bầu, không giống với bất kỳ loại nhạc cụ nào. Chiếc Đàn Bầu cần mẫn như người nông dân lao động tâm huyết với mảnh ruộng – vườn rau – ao cá, do đó nó biểu đạt sâu sắc tâm ý như giọng nói giàu ngữ điệu của con người Việt Nam. Khúc nhạc tâm hồn Đàn Bầu Việt Nam nỉ non, thiết tha, trong veo thanh sắc nhưng cũng có lúc trầm bổng réo rắt ấy đi vào lòng người nhẹ nhàng như chính giai thoại ra đời của nó.
Do quá trình sử dụng và do ảnh hưởng của văn hóa mà Đàn Bầu ở Việt Nam và Trung Quốc có những nét khác nhau. Đối với người Việt Nam, Đàn Bầu là loại nhạc cụ mang tính quốc gia dân tộc, được chơi khá phổ biến trong hệ thống nhạc cụ truyền thống, thì ở Trung Quốc Đàn Bầu chỉ là nhạc cụ của một nhóm người. Nguyên lý, cấu tạo, cách chơi đàn của Việt Nam và Trung Quốc hiện nay cơ bản giống nhau, chỉ khác về việc chạm khắc trên thân đàn….Những người chơi Đàn Bầu Trung Quốc chỉ chiếm số lượng nhỏ, còn ở Việt Nam thì Đàn Bầu có lịch sử lâu dài và ngưng kết thành một biểu tượng sâu sắc và toàn diện mang tính văn hóa dân tộc.
Tổ chức: Hội quán di sản
Đồ họa: Nhật nguyệt Production
Không gian: Reddesign
Bảo trợ: Circle Group.
Thông qua sự kiện âm nhạc kỉ niệm 102 ngày sinh Đại tướng – Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp là tiền đề cho dự án DANH TƯỚNG VIỆT NAM ra đời, đánh dấu sự phát triển mạnh trong việc đưa di sản vào đời sống đương đại thông qua các sản phẩm có tính ứng dụng cao.